Resident Evil 0 - Giờ Hành Động

Chương 10



Dịch giả: Lioncoeur

Sau cánh cửa phía bắc là một bầu trời đêm mát mẻ, Billy thấy thật sự nhẹ nhõm và hít thở thật sâu. Anh không nhận ra là mình đã hoảng sợ đến thế nào, khi nghĩ có thể sẽ không bao giờ thoát được nơi này. Thật không may, anh nhanh chóng thấy là họ vẫn chưa thoát; cánh cửa trong đài quan sát mở ra một lối đi dài và hẹp, hướng thẳng tới một toà nhà khác, cách chừng năm mươi mét. Hai bên mép lối đi đều là nước, một kiểu hồ nhân tạo tiếp giáp mặt đông của khu nghiên cứu.

Họ rời khỏi đài quan sát, rồi quay lại nhìn để xem cái nơi mình vừa đi qua, mất khoảng vài phút để nhận định xem họ đang ở hướng nào so với tiền sảnh, so với những căn phòng bên trong. Hoàn toàn thất bại. Cảm giác về phương hướng của Billy không mấy tốt, Rebecca cũng chẳng khá hơn bao nhiêu. Sau cùng họ từ bỏ mọi nỗ lực, và quay lại với tòa nhà cao sừng sững cuối con đường.

Hai người cùng sải bước, Billy vẫn đang ra sức hít đầy vào phổi bầu không khí ngọt ngào đượm đầy sương mù. Có lẽ đã qua nửa đêm về sáng. Khó nói chính xác vì không nhìn thấy được bầu trời, chỉ có vài đám mây xám lớn sau cơn mưa trôi lửng lơ trên đầu.

”Cô nghĩ coi chúng ta đang ở đâu,” anh hỏi.

”Làm sao mà biết được,” Rebecca trả lời. ”Hy vọng là một nơi có điện thoại.”

”Và nhà bếp,” Billy nối thêm. Anh ta đang đói meo.

”Phải,” cô đồng ý, giọng nói pha chút thèm thuồng. ”Cất đầy bánh pizza và kem.”

”Loại thịt bò và heo có rắc tiêu?”

”Loại Hawaiian,” cô nói. ”Và kem pistachio.”

”Gaah,” Billy làm điệu bộ khoái trá với mẩu đối thoại. Họ không có nhiều thì giờ để tìm hiểu nhau, mặc dù anh cảm thấy có một mối liên kết giữa hai người, kiểu anh thường gặp trong chiến đấu. ”Tin chắc cô cũng sẽ thích đồ ăn kiểu cam.”

”Đồ ăn kiểu cam?”

”Ừ, cô biết đó. Màu cam không tự nhiên. Người ta trộn phô mai và mì ống, thêm chút hương vị nuớc cam, bánh snack, phô mai chiên…”

Rebecca nhoẻn miệng cười. ”Nghe hay đấy. Tôi thích món này.”

Billy tròn mắt. ”Thiếu niên… Có phải cô đang tuổi thiếu niên không vậy?”

”Vừa đủ đi bầu cử,” cô nói, ngữ điệu có phần hơi thủ thế. Trước khi anh kịp hỏi làm sao mà cô vào được S.T.A.R.S. ở tuổi này, cô đã tiếp lời. ”Tôi là một trong những thần đồng xuất chúng, đã tốt nghiệp cao đẳng và có đủ loại bằng. Còn anh thì bao nhiêu tuổi, ông cụ? Ba mươi?”

Đến lượt Billy giở giọng thủ thế. ”Hai mươi sáu.”

Cô cười. ”Wow, già quá rồi. Để cháu kiếm cho cụ một cái xe lăn.”

”Nín mau,” anh vừa nói vừa cười lớn.

”Cháu nói rồi, để cháu kiếm cho cụ một cái xe lăn!” cô la còn lớn hơn, không chút nể nang. Họ vừa cười vừa đi qua một chòi canh trống trải nhỏ bé, nằm phía bên phải con đường, và thấy một thi thể nằm dưới đất.

Chỉ là phần còn lại, Billy nghĩ thầm, tâm trạng đang vui bỗng chùn hẳn xuống khi cả hai dừng bước, không thể không quan sát nó. Đôi chân và một cánh tay đã biến mất, khiến cái xác đang nằm úp mặt – quá xa để biết nam hay nữ - trông có vẻ như bị chết chìm trong vũng máu đậm đặc bao quanh.

Không ai nói thêm gì khi tiếp tục cất bước, cả hai đều tự trấn tĩnh lại trước tấn thảm kịch vừa xảy ra. Không thể để nó ám ảnh mãi trong đầu được; cứ mãi kinh tởm với những tai nạn rò rỉ virus chỉ tổ ảnh hưởng đến hành động, đôi lúc cười được một trận cũng rất quan trọng, thậm chí còn cần thiết, để giải tỏa phần nào gánh nặng tâm lý. Tuy nhiên, nếu nhìn một cái xác mà còn cười được, thì tình trạng tâm thần chắc là có vấn đề mất rồi.

Họ từ từ đi quanh khu kiến trúc chưa biết, nghiên cứu cách bố trí. Có vài nhánh rẽ nằm dọc hai bên con đường chính phía trước tòa nhà, bị bao bọc bởi cây cối và hoa lá nảy mầm từ khá lâu, khiến cho lối đi bị che khuất sau những bờ giậu rậm rạp. Có vài ngọn đèn bên ngoài chưa hư hỏng, nhưng chỉ đủ khiến cho bóng đêm trông có vẻ như tối hơn. Môi trường có phần không mấy hiếu khách, nhưng Billy không thấy bóng dáng một con zombie hay người đỉa nào, nên dù sao cũng đỡ hơn tòa nhà vừa rồi một chút.

Có vài bậc thềm đá dẫn lên cánh cửa đôi. Billy canh chừng mấy lối đi tối lờ mờ, trong lúc Rebecca đi lên những bậc thềm, đẩy cửa.

”Bị khóa,” cô nói.

”Đáng ghét thật,” Billy nói, và cũng leo lên theo. Anh thử lại tay nắm cửa, nhận thấy mặc dù lớp gỗ khá dày, nhưng ổ khóa thì không mấy chắc chắn. Ít nhất là với một lực tông đủ mạnh. ”Lùi lại.”

Anh quay ngang người, xuống tấn, đạp một cái thật mạnh vào ổ khóa, rồi cái nữa. Đến cú thứ ba, anh nghe tiếng gỗ nứt, rồi nó vỡ toác sau cú thứ năm, cái ổ kim loại rẻ tiền văng long lóc.

Hai người bước lên khung cửa, nhìn xung quanh. Sau những thứ đã gặp qua, anh nghĩ nơi này sẽ làm mình kinh ngạc, nhưng anh lầm. Đây là một nhà thờ được trang trí công phu như vẫn thường thấy, từ lớp kính màu trên vách tường cao sau bàn thờ, đến những chiếc ghế dài bằng gỗ sáng sủa. Nó cũng đã hư hại; chí ít một nửa số ghế bị lật nhào, và họ chỉ nhìn thấy được mọi vật nhờ cái lỗ thủng to tướng trên trần, cách nơi đang đứng không xa lắm.

”Coi cái bàn thờ kìa,” Rebecca thì thào.

Billy gật đầu. Thực ra không phải nhìn bản thân bàn thờ, mà là nhìn những những thứ xung quanh nó. Ngay trên mặt đất chỗ gần cửa trước là hằng trăm cây nến đã cháy hết, những bức tượng biểu trưng tôn giáo bị mất đầu, hầu hết bị hư hại hoặc bị trây trét bằng tro, còn có một bó hoa héo khổng lồ. Chỉ có thể miêu tả bằng một từ, ghê rợn.

”Tôi sẽ thấy nhẹ nhõm hơn nếu được rời khỏi chỗ này,” Billy nói, hạ giọng thấp đến độ nhận ra chính mình đang thì thào. ”Chúng ta nên kiểm tra xem có lối đi nào không.”

Rebecca gật đầu, đang lui lại – thì từ trên cái trần nhà cao hình vòm, có thứ gì đó vừa lớn vừa đen thui nhào xuống chỗ họ, kêu ré lên khủng khiếp, đôi cánh bụi bặm khổng lồ vỗ phần phật. Tất cả diễn ra một cách chậm chạp, đủ lâu để Billy nhìn rõ con vật. Nó là một loài dơi rất lớn, lớn hơn bất cứ loại nào anh từng biết, có sải cánh rộng cỡ chim đại bàng.

Nó bay vụt lên trước khi chạm đất, lui trở vào bóng tối trên đầu, nhưng cũng đã kịp quạt một luồng không khí đậm mùi thịt thối trùm lên họ. Billy kéo Rebecca lại bằng một tay, tay kia chộp lấy nắm cửa đã hỏng. Anh dập cửa lại, ước gì mình đã không phá tung nó, nhưng rồi nhận thấy là chuyện đó chẳng thay đổi được gì. Họ nghe tiếng con dơi khổng lồ bay vụt qua lỗ hổng trên nóc, nghe tiếng bộ móng vuốt ngoại cỡ cào sột soạt trên lớp ván.

”Chạy!” Billy la lớn.

Cả hai lao xuống những bậc thềm, Rebecca dẫn đường sang phải. Ở đó có nhiều thứ che chắn hơn, với một con đường mòn men dọc theo tòa nhà. Nó rẽ ngoặt rất gắt, một lần, hai lần, lối rẽ ẩn trong những cây cối và bụi rậm mọc tràn lan. Rebecca chạy rất nhanh, nhưng Billy vẫn theo kịp, phần nào bị thúc đẩy bởi hình ảnh đôi cánh rung động phủ chụp lên mình, bị cấu xé bởi những móng vuốt -

”Đằng kia!” Rebecca chậm lại, tay chỉ tới trước.

Bên phải con đường trước mặt là một thứ giống như thang máy, nằm chơi vơi bên hông nhà thờ. Billy không biết đây có phải là một lựa chọn sáng suốt hay không, nhưng tiếng vỗ cánh đã vang lên đâu đó trên đầu, cùng với tiếng ré đinh tai của con dơi đang săn mồi. Anh theo Rebecca đến cửa thang máy, lòng thầm tạ ơn Chúa khi thấy nó trượt ra theo đà kéo của cô. Không gian bên trong tương đối chật cho hai người; họ phải ép sát vào nhau, và thấy cái này chỉ đi xuống. Vậy cũng tốt; Billy chẳng màng tới chuyện viếng thăm tháp chuông nhà thờ, kẻo lại gặp lũ chị em con dơi thì toi.

Rebecca nhấn công tắc đóng cửa. Ngay khi nó sắp đóng, một con zombie lắc lư sấn tới chỗ họ như từ trên trời rơi xuống, một phụ nữ, mấy ngón tay lòi xương quơ quào về phía hai người. Nó rên lên, để lộ hàm răng đen sì, và rồi cánh cửa đóng sập lại, ngăn cách con zombie bên ngoài, ngăn cách tiếng rít the thé của con dơi bị lây nhiễm.

Hai người cùng ngồi thụp xuống, tựa vào vách thang. Họ vẫn có thể nghe thấy tiếng rên đói khát của con zombie cái ngoài cửa, nghe tiếng mấy ngón tay lòi xương cào sột soạt lên khung cửa sắt. Vài giây sau, tiếng rên của nó được phụ họa bởi một tiếng nữa, rồi tiếng thứ ba, tất cả lộ vẻ tiếc nuối thất vọng.

Chỉ có hai lựa chọn, tầng B1 hoặc B2. Billy nhìn Rebecca, cô khẽ lắc đầu, da mặt nhợt nhạt. Lũ zombie bên ngoài vẫn tiếp tục cào cào cánh cửa, và Billy nhấn nút B1. Thang máy không hề nhúc nhích.

”Vậy thì, B2,” Billy nói, cầu mong là họ đã không tự đút đầu vô rọ. Anh nhấn nút. Thang máy khẽ tròng trành rồi hạ xuống êm ả. Billy hơi sấn lên trước Rebecca, hờm sẵn khẩu súng, hy vọng nó sẽ không mở ra giữa một bầy sinh vật bị nhiễm, đang háo hức chờ xơi bữa khuya.

Cửa thang máy trượt ra không một tiếng động, để lộ một hành lang đầy gạch vụn nhưng vắng ngắt. Anh nhấn lại nút B1, hy vọng nó hoạt động, nhưng thang máy cứ nằm ì đó. Xem ra, họ chỉ có thể quay lại với con dơi và lũ zombie, hoặc thám hiểm tầng hầm thứ hai. Đương nhiên là Billy chọn giải pháp thứ hai.

Anh thận trọng bước ra, Rebecca theo sát phía sau. Tương tự ngôi biệt thự vừa rồi, cách trang trí cũng như kiểu kiến trúc chỗ này khá tao nhã và xa hoa. Mặt sàn lát đá hoa cương, tuy đã sứt mẻ nhưng vẫn toát lên vẻ lịch sự sang trọng, nằm dọc hành lang là những cây trụ tinh xảo, phía trên lối vào được uốn cong thành hình mái vòm. Bên trái họ có một cầu thang đi lên, bị lấp kín bởi đá vụn và vữa tường. Nằm cùng phía còn một cánh cửa nữa, ngay trước lối rẽ sang phải của hành lang.

Họ dừng trước cầu thang, nhưng nó hoàn toàn không sử dụng được nữa, đá và vữa đã bịt kín từ sàn lên tới trần. Nếu muốn trở lên chỉ có cách dùng thang máy… tuy nhiên Billy không muốn chút nào. Sau khi đã liên tiếp chạm trán đủ thứ quái vật kinh khủng, nguy hiểm, kinh tởm, anh thật sự muốn nghĩ ngơi một lát.

”Cái đống này đảm bảo cho ta tránh được bọn quái vật,” anh khẽ nói.

”Nhất trí,” Rebecca nhẹ nhàng đáp lại. Cô nhoẻn miệng cười với anh, có điều không được tự nhiên. Họ cùng dấn bước, tiếng giày nện lộp cộp trên mặt đá.

Rebecca dừng lại ở cửa đầu tiên, trong khi Billy kiểm tra nhanh phần còn lại hành lang. Có một ô cửa thứ hai bị khóa bằng loại khóa két sắt – và cửa thứ ba, Billy không chắc lắm, nhìn có vẻ như hành lang kết thúc bởi một vách tường màu xanh, nhưng ngay đó lại xuất hiện một điện thờ rất công phu - với hai bức tượng làm giá đỡ cho một khuôn mặt đắp nổi dựng nghiêng, giống Marcus như tạc. Không thấy lỗ khóa, nhưng dưới bức tượng là một dấu lõm có kích cỡ bằng nắm tay con nít, trông cứ như bị mất một mảng.

Hấp dẫn làm sao. Lại thêm hai câu đố mở khóa nữa, Billy ngán ngẩm, quay lại chỗ Rebecca. Bọn người này muốn gì cơ chứ? Nếu bọn nó nghĩ mình thông minh xuất chúng, sao không đi giải đố ô chữ cho rồi?

May mắn thay, cánh cửa đầu tiên không khóa. Hai người tiến vào một căn phòng tao nhã đã hư hỏng, chất đầy những kệ. Nằm ngay đầu phòng là một tấm thảm phương Đông đã ố màu. Nơi này có hình dáng gần như chữ U, sáng rực rỡ trong đêm dưới nhiều ngọn đèn. Bên cạnh mấy cái kệ có nhiều bàn thấp và bàn giấy loại nhỏ, với một máy đánh chữ cổ lỗ. Billy bước tới cái bàn gần nhất, nhặt lên một mảnh giấy.

”’Không có vẻ gì là rắc rối, nhưng tôi vẫn phải đề phòng,’” anh đọc lên. ”Để giấu chiếc lá, hãy đặt nó trong rừng. Để giấu chìa khóa, hãy làm nó giống như chiếc lá,’”

”Rõ như ban ngày ấy,” Rebecca nói, Billy gật đầu. Lại nữa - bọn này muốn gì cơ chứ?

Rebecca nhìn lên kệ, còn Billy đi quanh phòng, chú ý thấy một cái lỗ hổng lớn trên trần, nằm trong góc gần phía cửa. Nó khá cao, nhưng nếu có một cái bàn…

”Tất cả đều nói về sinh vật học,” Rebecca nói. ”Động vật có vú, côn trùng, động vật lưỡng cư,…”

”Nhìn này,” Billy gọi lại, Trong lúc cô đi quanh lỗ hổng, Billy lôi một cái bàn gần nhất kê bên dưới nó. Anh vẫn không thể với tới…

”Tôi có thể lên đó được,” Rebecca nói. ”Anh tìm thử xem có dây hay thứ gì giúp leo lên không.”

Billy nhăn mặt. ”Tôi không biết. Lần gần nhất khi cô tìm kiếm…”

”Được mà,” cô nói với vẻ mặt cương quyết. Cô đang tình nguyện làm, nếu không muốn nói là hăm hở - mà họ thì phải làm gì đó thôi.

Billy bước lên bàn, bắt chéo tay lại để nâng Rebecca. Cô leo lên, đạp chân phải lên tay anh, một tay vịn vai. Thật sự thì cô nhẹ hẫng, đến nỗi Billy có thể nâng hai người như cô cũng được. Anh dể dàng đẩy cô lên cao, và Rebecca biến mất khỏi tầm nhìn khi trườn vào trong. Một giây sau, cô thò đầu ra ngoài lỗ hổng.

”Có vẻ an toàn, nhưng tối quá,” cô nói. ”Dường như là một phòng thí nghiệm, có nhiều kệ, vài cái bàn… Để tôi xem có thể tìm được gì.”

Cô lại biến mất kần nữa. Billy nhìn chăm chăm lên đó chờ đợi, không ngừng tự nhắc mình rằng cô ta biết cách tự xoay sở. Rebecca đã chứng minh rằng cô mạnh mẽ và tháo vát còn hơn khối quân nhân từng trải mà anh biết - nếu gặp rắc rối, cô chỉ việc nhảy xuống là xong, không có gì phải lo ngại –

Rebecca thốt lên một tiếng hét ngắn ngủi sắc gọn, và Billy lạnh toát cả người

”Rebecca!” anh la lớn, bất lực nhìn lên lỗ đen trên đầu.

oOo

Có vẻ là một phòng thí nghiệm, một nơi được sử dụng liên tục hồi thập niên trước, và tới giờ vẫn chưa được dọn dẹp hết. Có một lớp bụi dày trên sàn và trên kệ, nhưng đâu đó có dấu hiệu bị dịch chuyển và để lại dấu tích - những lằn vết dưới ghế, dấu tay trên những cái chai mẫu vật, Rebecca liếc nhanh xung quanh, rồi quay xuống lỗ trống. Phía dưới, Billy đang căng thẳng chờ đợi.

”Có vẻ an toàn, nhưng tối quá. Dường như là một phòng thí nghiệm, có nhiều kệ, vài cái bàn… Để tôi xem có thể tìm được gì.”

Cô quay lại, quan sát căn phòng nhỏ lần nữa – và nhận ra nó lớn hơn cô tưởng, có một phần bị ẩn đi dưới một mặt thềm rộng chia đôi gian phòng. Cô chỉ thấy được nó, nhờ ánh sáng màu xanh nhạt yếu ớt phát ra từ khu vực ẩn. Nắm chặt súng trong tay, cô vòng qua góc –

- và hét lớn, suýt nữa bắn vào con quái vật lay động phía trước, để rồi nhận ra nó không phải là vật sống.

”Rebecca!”

”Tôi không sao!” cô gọi xuống, vẫn nhìn vào sinh vật kỳ quái đó. ”Chỉ bị hú hồn thôi. Không sao.”

Cô tiến lại gần một ống trụ mẫu vật có kích cỡ bằng người thường, bên trong chứa đầy chất lỏng trong suốt, đang phát ra ánh sáng nhàn nhạt. Có tất cả bốn ống dàn thành một hàng, cái sau nhìn ghê rợn hơn cái trước. Thứ bên trong đã từng là người, nhưng đã bị biến đổi qua phẫu thuật, tin chắc cũng bị tiêm T-Virus. Cô cố gắng nghĩ cách mô tả cho Billy, nhưng thật sự là không tài nào tả nổi; các chi vạm vỡ của chúng đang nổi lơ lửng, trông méo mó hết sức kỳ quặc, phần thân vá víu khắp chỗ, bộ mặt biến dạng thể hiện một nỗi thống khổ và hung tợn. Tóm lại là hết sức kinh tởm.

Phía sau hàng sinh vật kỳ quái giống người đó, có một cái hộp đựng mẫu vật khác, chứa toàn những ống nhỏ hơn. Rebecca nghiêng người, thấy trong mỗi ống có một con đỉa chết. Cô nhăn mặt, tính quay đi chỗ khác – thì nhận ra có một ống hơi khác biệt. Con đỉa bên trong… không thật là một con đỉa.

Cô đẩy ô cửa kính lấm bụi sang bên, kéo cái ống khác thường đó ra, đưa lên dưới ánh sáng lờ mờ. Nắp ống được dán keo hoặc hàn kín, và thứ bên trong có hình một con đỉa, nhưng là một vật được chạm trổ hoặc điêu khắc, nhuộm màu xanh thẫm.

Tại sao lại làm một con đỉa giả và đặt nó –

Cô chớp mắt, nhớ lại mảnh giấy Billy đã đọc – để giấu chiếc lá, hãy đặt nó trong rừng. Để giấu chìa khóa…

Rebecca quay lại lỗ hổng, đưa cái ống ra cho Billy thấy. ”Tôi nghĩ mình đã tìm thấy chìa khóa chiếc lá,” cô nói, và thả nó xuống. ”Nói cho đúng phải là chìa khóa con đỉa.”

Billy bắt gọn lấy nó, nhìn săm soi. ”Cá là nó khớp với một trong mấy cánh cửa,” anh nói. ”Leo xuống đi thôi, chúng ta sẽ cùng thử.”

”Cái nắp không mở được,” cô lên tiếng, và ngưng lại khi thấy Billy thả nó xuống dưới sàn bên cạnh bàn. Anh chàng cười nhe răng với cô, rồi nhảy lên, giậm gót giày xuống cái lọ. Thủy tinh bể nát, và một giây sau, anh lượm vật chạm khắc đó lên.

”Chuyện nhỏ,” anh nói. ”Đi thôi.”

Cô cắn môi, nhìn xung quanh gian phòng thí nghiệm. Có nhiều tủ hồ sơ và giấy tờ khắp nơi…

”Anh đi trước đi. Để tôi xem có thể tìm được tấm bản đồ nào không.”

Billy cau mày. ”Cô chắc chứ?”

”Sợ đi một mình à?” cô đáp lại, khẽ cười cười.

”Thú thực là có,” anh vừa cười vừa đáp. ”Được thôi. Tôi sẽ trở lại ngay. Đừng có đi đâu xa quá đấy nhé? Nếu có gì nhớ gọi tôi.”

Rebecca vỗ lên bộ đàm. ”Dễ mà.”

Anh nhìn cô một thoáng, rồi quay lưng đi thẳng. Rebecca ngó quanh phòng thí nghiệm lần nữa, chú ý đến hai cái bàn lớn nhất. ”Nào, Marcus, để coi ông có để lại cho bọn tôi thứ gì hữu dụng không,” cô nói và đi đến cái bàn, không hề biết rằng mình đang bị quan sát từ khoảng cách rất, rất gần, trong lúc nhặt một cuộn giấy lên và bắt đầu đọc.

oOo

Mày tới số rồi.

Hắn nắm chặt bàn tay lại, điên tiết. Lũ con cố gắng xoa dịu hắn, trườn qua vai hắn, nhưng hắn phủi chúng thẳng tay, mặc kệ mọi nỗ lực của chúng.

Rebecca, đang đọc những bản ghi chép riêng tư của Tiến sĩ Marcus. Tìm được lá bùa dẫn tới phòng riêng của tiến sĩ Marcus, đưa cho Billy. Rồi tất cả những gì còn lại chúng cần làm chỉ là leo lên xe cáp treo, có lẽ mở thêm vài cái khóa, thế là sẽ ra đi yên ổn… Nhưng xem ra bọn chúng không chịu bỏ lại ký ức về Tiến sĩ Marcus lại đằng sau, chúng cả gan xâm phạm đến những điều riêng tư ít ỏi mà ông ta để lại.

”Còn lâu, nếu chúng ta ngăn cản bọn chúng,” hắn nói với lũ con, trong lúc quan sát Billy dùng cái hình khắc để mở cửa phòng Tiến sĩ Marcus, còn Rebecca đang nghiên cứu cẩn thận những giấy tờ của Marcus. Theo dõi hai đứa nó thật là một thú tiêu khiển ra trò, nhưng nhiêu đó đủ rồi. Thế giới này sẽ biết đến sự thật về Umbrella mà không có chúng.

Đã đến lúc những đứa con của hắn gia nhập cuộc chơi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.