Nàng đứng trên đường, ngước nhìn tòa lâu đài sừng sững như một khối đá ngự trên đỉnh núi.
Lisle đã ra khỏi làng và tới nơi vừa kịp lúc xe ngựa của Olivia dừng lại bên nghĩa địa cạnh phế tích nhà thờ. Chàng quan sát nàng bước xuống rồi đi tới một bên lề đường. Nàng đứng đó, tay khoanh trước ngực, nhìn lên Lâu đài Gorewood với vẻ thích thú đến mê hoặc.
Một đoàn xe dài - xe kéo và xe thồ - đứng trước mặt nàng. Những đoàn xe khác nối theo sau. Tất cả dân trong làng dù đang làm gì cũng đều ngừng lại, kinh ngạc bước ra chiêm ngưỡng.
Chàng cũng đang há hốc miệng kinh ngạc. Chàng không nhìn thấy đoàn xe nào dài tới vậy kể từ khi Vua George IV đi kinh lý từ một thập kỷ trước.
Nàng không hề biết gì về đoàn ngựa, xe kéo, xe thồ chạy qua bên cạnh. Nàng không để ý tới gì khác ngoài những gì đang nhìn thấy trong khối đá vuông vức uy nghi trầm mặc kia.
Còn tất cả những gì chàng thấy lại là Olivia, trong một dáng vẻ rất đặc trưng. Chàng yên lặng giây lát, chỉ để quan sát nàng đứng im phăng phắc tới nỗi một người giàu trí tưởng tượng có thể nghĩ nàng đã dính phải bùa mê.
Đây là Olivia, thế nên rõ ràng nàng đã bị bỏ bùa mê. Chẳng cần phải giàu trí tưởng tượng mới nghĩ ra điều đó. Chỉ cần quen biết nàng là sẽ hiểu.
Chàng không biết khi nhìn thấy Kim tự tháp thì nàng sẽ thế nào nhỉ?
Câu hỏi thật ngu ngốc. Tất nhiên nàng sẽ bị mê hoặc. Nàng sẽ bất chấp gian khó. Nàng đã lớn lên trên những con phố của Dublin và London. Nàng đã hạnh phúc và phấn khích... Cho tới khi tất cả trở nên cũ kỹ khiến nàng phát chán.
Cuộc sống của chàng không phải lúc nào cũng vui thú như nàng tưởng tượng. Công việc nhàm chán và tẻ ngắt. Để tìm được một ngôi mộ có khi phải mất nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm trời. Ngày nối ngày dưới cái nắng gay gắt, quan sát nhân công cẩn thận vận chuyển cát... sự chậm chạp và tỉ mỉ của công việc sao chép những hình ảnh trên mộ và trên các bức tường của ngôi đền, vẽ lại các đài tưởng niệm, bởi vì những thứ này rất dễ biến mất.
Mọi bức tường và trần nhà đã bị xẻ ra, mang tới các viện bảo tàng trang hoàng hoặc những bộ sưu tập cá nhân. Đền đài đã bị phá hủy, đá từ đó được dùng trong nhà máy.
Chàng nhớ nó, cái công việc nhàm chán và tẻ ngắt ấy. Chàng nhớ việc tìm kiếm, đo đạc, sắp xếp, dọn dẹp.
Nàng hiểu tình cảm của chàng dành cho Ai Cập, nhưng nàng không bao giờ hiểu được tình cảm của chàng dành cho những công việc tỉ mỉ như thế. Thực tế cuộc sống của chàng ở đó sẽ khiến nàng chán ngấy, và chàng biết điều gì sẽ xảy ra khi Olivia trở nên chán ngấy.
Một ngày nào đó nàng sẽ tới chiêm ngưỡng các Kim tự tháp, chàng tin chắc như thế. Nàng sẽ tới thăm như nhiều người khác đã tới thăm, những nhà quý tộc đi trên du thuyền sang trọng, ngược xuôi trên dòng Nile, rồi vài tháng sau thì trở về nhà, trên du thuyền chất đầy kỷ vật.
Đúng vào lúc tâm trí chàng vẫn còn phiêu du tận đẩu đâu thì nàng quay mặt lại. Quá bất ngờ, chàng cảm thấy như thể cả thế gian trôi tuột đi. Chẳng còn gì tồn tại ngoài khuôn mặt đẹp tuyệt trần của nàng, đôi mắt xanh biêng biếc và làn da màu ngọc trai, đôi má thắm hồng như ánh mặt trời.
Chàng thấy như có ngàn mũi kim nhọn đâm trúng tim mình.
“A, ngài ấy kia rồi, chủ nhân tòa lâu đài,” nàng nói bằng thứ giọng Scotland nặng trịch mà hẳn nàng mới học được ở Edinburgh.
Tiếng nói ấy kéo chàng ra khỏi cơn mê. Chàng hy vọng nàng không mua kèn túi để chơi.
Chàng đi lại. “Nói giọng ấy với người trong vùng thôi,” chàng nói. “Họ đang nghĩ ta là nhân viên thu thuế hoặc người treo cổ phạm nhân không chừng.”
Nàng cười khẽ, tiếng cười êm như nhung. Chàng cảm thấy mình bị cuốn vào giọng cười đó, như một con ruồi ngu ngốc đang lờn vờn bên mạng nhện.
Thực tế. Hãy nghĩ tới thực tế. Chàng ngắm nghía trang phục của nàng như thể nó là đồ cổ.
Bên trên những lọn tóc đỏ au xoăn tít, nàng đội chiếc mũ quái dị như thường lệ: cái vành rộng như boong tàu đô đốc, rất nhiều sợi lông và dải ren rủ xuống từ chóp mũ. Nàng mặc chiếc váy cũng quái dị như thường lệ: ống tay phồng to như thùng rượu và chân váy bồng bềnh, eo thít chặt tới nỗi dường như đàn ông có thể ôm trọn trong một bàn tay.
Dường như không đồng nghĩa với thực tế. Dường như là thứ mộng mơ. Chàng ném suy nghĩ ấy ra thật xa như thể nó là một mẩu rác rưởi vô dụng.
Chàng bỏ mũ ra và cúi đầu chào, một hành động giúp chàng chỉnh đốn lại lý trí. “Chào mừng đến lâu đài Rùng Rợn,” chàng nói. “Ta hy vọng nó đủ tàn tạ và u ám với em.”
“Nó thật tuyệt vời,” nàng thốt lên. “Vượt xa hy vọng của em.”
Quả thực nàng cực kỳ thích thú. Và kia, không lẫn vào đâu được, sự phấn khích đã tô hồng đôi má và thắp sáng đôi mắt nàng.
Nếu họ còn con trẻ, chắc chắn nàng sẽ chạy tới bên chàng, vòng tay đu lấy cổ chàng và kêu lên, “Được đến đây em vui quá!”
Chàng thấy một thoáng buồn len lỏi trong lòng, một cảm giác mất mát - nhưng người ta đâu thể là trẻ con mãi, mà cũng chẳng ai muốn thế.
Chàng đội mũ lại và hướng sự chú ý về lâu đài Gorewood cùng những thông tin về nó.
“Kiểu lâu đài xây trên ụ đất lớn, có sân bao rộng,” chàng nói. “Hình chữ U. Tòa nhà chính có tầng hầm và ba tầng nữa. Hai chái nhô ra từ mặt phía Tây của tòa chính, với ba tầng ở trên tầng hầm. Chiều cao của tòa lâu đài là ba mươi hai mét, tính từ tầng trệt lên tới đỉnh. Trung bình tường dày bốn mét rưỡi. Nó rất khác những lâu đài bình thường, đúng thế, và nó cũng thật đặc biệt khi tồn tại được lâu tới vậy mà chỉ bị hư hỏng chừng này.”
“Cảm ơn về bài giảng kiến trúc.” Nàng khẽ lắc đầu khiến những lọn tóc đung đưa quanh gương mặt. “Ngài chẳng thay đổi tí nào cả nhỉ? Em muốn nói bầu không khí ở đó tuyệt vời cơ. Rất xám xịt và nguy hiểm. Và ánh sáng, vào thời điểm này trong ngày - mặt trời xuống thấp xuyên qua màn mây tạo ra những vệt tối dài phủ chụp lên không gian ảm đạm - như thể lâu đài Gorewood tỏa bóng tối xuống khắp thung lũng bao quanh.” Trong khi nàng đang nói, một bầy quạ, không rõ bị cái gì đánh động, bay vụt lên tòa tháp phía Bắc, kêu quàng quạc. “Và kia là những bóng ma u tối của ngài,” nàng nói thêm.
“Miêu tả bầu không khí là sở trường của em rồi,” chàng nói. “Ta thì biết đủ về không khí ở đây rồi. Chẳng có gì ngoài mưa cả.” Ngắn gọn là như thế, những ngày mưa ngắn ngủi ảm đạm, nối liền những đêm dài u ám mưa giăng. Trong lúc đó, chàng luôn tự hỏi mình đã làm gì mà phải chịu đi đày ở đây. Ước gì chàng có ai đó để hàn huyên, và tự nhủ chàng không có ý bảo đó là nàng, nhưng phải là một người nhạy cảm. Nhưng giờ nàng ở đây, bừng sáng như ban mai Ai Cập, vừa đâm ngập trái tim chàng, vừa nâng nó lên cao bay bổng.
“Thế thì em xin trịnh trọng tuyên bố là không khí này hoàn toàn hợp lý,” nàng nói. “Một bối cảnh hoàn hảo cho những câu chuyện rùng rợn như Frankenstein hoặc The Monk.”
“Nếu đó là định nghĩa của em về sự hoàn hảo, chắc chắn em sẽ chết mê với phía bên trong lâu đài,” chàng nói. “Ám, lạnh và tối như hũ nút. Nhiều cửa sổ hư hỏng và tường chằng chịt kẽ nứt. Hệ quả là, chúng ta sẽ được nghe tiếng gió gào hú xuyên qua đó.”
Nàng tiến lại gần hơn, chăm chú nhìn chàng từ dưới vành mũ rộng bát ngát. “Em không đợi được nữa,” nàng nói. “Chỉ cho em thật nhanh đi, trong khi trời vẫn còn chút ánh sáng.”
Olivia đang rất hồi hộp vào trong lâu đài, đúng thế, nhưng nàng không quên để ý cổng vòm đổ nát ở lối vào, nơi đoàn xe của nàng chạy xuyên qua. Nàng những mong thấy Lisle xuất hiện ở đó. Nàng tưởng tượng chàng đứng hồi lâu ngay bên cạnh cái chòi canh hình trống ở cổng cũng vô cùng điêu tàn và ấn tượng, quan sát đoàn xe đi ngang qua và tìm kiếm bóng nàng. Rồi chàng thấy nàng, bước ra khỏi chòi và... ừm, chàng sẽ dang rộng vòng tay để nàng chạy vào. Nàng cứ mong chàng sẽ bước ra từ đó, để chào nàng, với cương vị chủ nhân của tòa lâu đài.
Thay vì thế, chàng đột ngột xuất hiện, đúng nơi mà ánh mặt trời xuống thấp có thể tỏa sáng mái tóc chàng khi chàng ngả mũ cúi đầu chào. Ánh nắng dát vàng lấp lánh trên tóc chàng và nhảy múa trên đám bụi mù quanh đoàn xe, tạo nên những đốm vàng dập dờn quanh người chàng.
Thật bực mình khi chàng xuất hiện bất ngờ như thế, cùng với tất cả ánh vàng sáng chói như thể một nhân vật trong câu chuyện cổ. Trong một thoáng, nàng đã ngỡ chàng sẽ nhấc nàng lên mình con bạch mã rồi đưa nàng đi...
Tới đâu? Ai Cập. Còn đâu nữa chứ? Tới đó chàng sẽ đặt nàng xuống sa mạc và quên bẵng nàng ngay khi nhìn thấy một xác ướp hư hỏng, bốc mùi.
Nhưng chàng không thể làm thế, mà nàng cũng chẳng làm được gì với xuất thân của mình. Và chàng là bạn của nàng.
Bạn nàng có rất nhiều quầng thâm dưới mắt, nàng phát hiện ra điều đó khi quan sát kỹ hơn. Dưới bóng của vành mũ thì khó phát hiện được bên mắt bị thương, nhưng cũng chính bóng tối ấy tô đậm những nét mệt nhọc kia trên gương mặt chàng.
Chàng cũng đang không vui. Chàng tỏ ra cam chịu, nhưng nàng có thể nghe thấy sự không vui ấy trong giọng chàng và nhìn thấy nó trong dáng đi của chàng, rất cứng nhắc và thiếu niềm phấn khởi.
Nhưng nàng không nói gì, chỉ lắng nghe lúc chàng tiếp tục bài giảng ra vẻ thông thái trong khi họ lướt qua dưới cổng vòm, tiến vào sân bao đầy cỏ.
Nàng thấy các tường bao đều nham nhở, nhưng những chuồng ngựa ở phía cuối sân còn hư hỏng nặng hơn. Nói chung, tòa lâu đài đã quá đổ nát so với công trình ban đầu của người Atherton. Cũng chẳng đáng ngạc nhiên. Cả nàng và Lisle đều hiểu tòa lâu đài này đã sắp tới lúc sụp đổ hoàn toàn.
Họ tới gần một cầu thang dẫn lên - có lẽ cao khoảng mười mét - tới cửa chính vào lâu đài.
“Đây là lối vào tầng một,” chàng nói. “Ngày xưa người ta đi qua cầu kéo hoặc đi qua bên dưới khung lưới sắt của cổng thành, nhưng những thứ đó hỏng lâu rồi. Khi những hoạt động khôi phục chính được hoàn tất vào thế kỷ trước, các cụ nhà ta hẳn đã quyết định sử dụng cầu thang hợp lý hơn. Một quyết định sáng suốt, ta nghĩ thế. Ngày nay cầu kéo và khung lưới sắt không hữu dụng nữa, mà bảo trì chúng cũng rất mất công.”
Nàng có thể tưởng tượng ra cầu kéo và khung lưới sắt. Nàng có thể tưởng tượng ra tòa lâu đài vào thuở ban đầu, khi những bức tường bao vẫn còn vô cùng chắc chắn, và có rất nhiều lính gác thường trực quan sát từ các tháp, chòi canh và lan can thượng.
Nàng toan bước lên bậc tam cấp thì chàng vòng tay quanh hông nàng ngăn lại. Nếu là nhân vật mà nàng đã tưởng tượng, chàng sẽ kéo nàng vào vòng tay và nói với nàng rằng chàng nhớ nàng biết bao nhiêu.
Nàng đã rất nhớ chàng, thật chẳng dễ chịu gì. Nàng đã mong sao họ có thể cùng nhau khám phá Edinburgh. Hẳn là chàng cũng sẽ nguôi giận trước vẻ đẹp của miền đất ấy. Hẳn là chàng cũng sẽ công nhận nó khác xa London, như một thế giới hoàn toàn lạ lẫm.
Nhưng bàn tay đeo găng của chàng chỉ khẽ chạm vào người nàng rồi đẩy nàng về phía một lối đi phủ đầy cỏ dại và đá sỏi dẫn vào tầng trệt.
“Kia,” chàng nói. “Chúng ta có một tầng hầm có ba phòng ở tòa nhà chính. Mái vòm chạm tò vò. Một phòng có giếng nước ở tháp Nam. Ta sắp đặt cho em và hai quý bà ở tháp Nam. Ắm hơn và sáng hơn một chút. Hai Nữ Yêu sẽ ở tầng thấp hơn bởi vì cầu thang sẽ giết họ mất.”
Nàng nhìn lên cao, cao mãi tới tận đỉnh lâu đài. Cầu thang ở trong đó chắc rất chật hẹp, uốn lượn rất dốc. Và tối đen nữa. Thời xưa, kẻ thù mà tìm cách vào được trong lâu đài thì cũng dễ dàng bị sập bẫy và bị giết trước khi kịp làm gì.
“Cầu kéo và khung lưới sắt sẽ thú vị hơn bao nhiêu nhỉ,” nàng nói, bắt đầu bước lên những bậc tam cấp kém lãng mạn.
“Một nhà ngục có khiến em thấy ấn tượng hơn không?” chàng hỏi. “Bởi vì chúng ta có một nhà ngục khá ẩm ướt ở chái Bắc của tầng trệt này.”
“Em nghĩ là có đấy,” nàng nói.
“Hiện tại không dùng đến nó nữa,” chàng nói. “Ngoại trừ phòng giếng, các phòng khác ở tầng hầm đều ở trong tình trạng hư hỏng nặng. Một trong những cầu thang dẫn từ tầng một xuống đã bị sập. Tuy nhiên, bức tường bao quanh lâu đài là thứ bị phá hỏng nặng nề nhất.”
Nàng bước lên bậc tam cấp cuối cùng. Cánh cửa mở ra và nàng bước qua người hầu đang giữ cửa, đi xuyên qua một hành lang ngắn. Rồi nàng cứ thế đứng chôn chân, há hốc miệng kinh ngạc như một cô nông dân chính hiệu.
“Ta cũng đã có phản ứng y như thế,” giọng Lisle vang lên từ sau lưng nàng. “Nếu nghe cha mẹ ta miêu tả, em hẳn sẽ nghĩ chúng ta có cây cối mọc trong lò sưởi và chim chóc làm tổ trên gác trưng bày.”
Nàng biết cha mẹ chàng đã thổi phồng lên. Lúc nào họ chẳng vậy. Nhưng cảnh tượng này với nàng quả thực quá bất ngờ.
Trước mắt nàng là một phòng tiệc cực lớn, tất nhiên là nàng đã từng ở trong nhiều phòng tiệc như thế. Nhưng chúng đều được bày biện đủ thứ, trưng ra mọi tiện ích hiện đại. Chúng không nguyên sơ và đơn giản như căn phòng này.
Trên đầu nàng là một mái vòm khổng lồ. Bên trái nàng, phía cuối căn phòng dài bất tận, một ngọn lửa bập bùng trong cái lò sưởi rất lớn có nắp bằng đá tảng hình nón. Phía bên kia là những hốc tường rộng thênh thang đã đặt sẵn nến.
Căn phòng sáng rực rỡ. Dù hầu như chẳng bày biện gì, nhưng có lẽ căn phòng đã như thế này từ nhiều thế kỷ trước đây, khi Nữ hoàng Mary của Scotland tới thăm.
Nàng nghĩ cảm xúc này hẳn chỉ bằng một phần nhỏ so với những gì Lisle cảm thấy khi chàng lần đầu nhìn thấy một ngôi đền cổ: cảm giác bước vào một thế giới khác cổ xưa hơn.
Nàng mơ hồ cảm nhận được những người hầu đang đi vào phòng tiệc, xếp hàng, chờ đợi, và nàng biết họ đang chờ lệnh nàng, nhưng trong một lát, tất cả những gì nàng có thể làm là tiếp nhận không gian xung quanh.
“Dài mười bảy mét và rộng tám mét,” giọng Lisle vang lên từ phía sau. “Mười mét tính từ sàn lên đến đỉnh mái vòm nhọn. Gác trưng bày có vẻ như đã bị thay đổi vào thế kỷ trước. Ta không chắc có cần phải làm thế không.”
Nàng quay lại nhìn chàng. “Rực rỡ quá.”
“Ta vui vì em nghĩ thế,” chàng nói. “Ta hy vọng em sẽ làm cho đám gia nhân hiểu được vẻ rực rỡ ấy. Có vẻ như họ nghi ngờ điều đó.”
“Em sẽ làm thế,” nàng nói đầy nhiệt huyết. Nàng biết chính xác phải làm gì. Nàng tới đây cũng chỉ vì thế. Để biến phế tích thành một kỳ quan và đưa một ngôi làng trở lại với cuộc sống bình thường. Làm được một việc gì đó đáng giá.
Nàng chuyển sự chú ý sang đám người hầu đang xếp hàng, khuôn mặt họ lộ vẻ không vui. Thật lạ lùng, những người mới đến cùng nàng có vẻ lo lắng sợ hãi hơn những người đã ở đây mấy ngày. Nàng tin chắc Lisle đã làm hết sức để xốc dậy tinh thần của họ. Nhưng xét cho cùng, tất cả bọn họ đều từ London đến. Chắc hẳn họ phải cảm thấy mình như đang ở Thời đại Tăm tối.
Nàng có thể trấn an họ. Chuyện này với nàng không có gì khó. Ngay khi nàng làm được thế, họ sẽ hoàn thành công việc nhanh hơn nhiều.
Rồi chàng sẽ sớm được trở lại với tình yêu thực sự duy nhất của mình, còn nàng...
Ôi, vì Chúa, nàng còn rất trẻ. Nàng vẫn còn nhiều thời gian để tìm ra tìm yêu đích thực của mình.
Sự khác biệt này chẳng hay ho gì, nhưng trước đây nàng đã dẹp tan nhiều sự khác biệt rồi.
Chỉ cần để ý xem nàng đã tiến xa tới mức nào kể từ ngày gặp chàng. Và giờ nàng có một tòa lâu đài - không phải mãi mãi, nhưng mà nàng cũng đâu phải cô gái sinh ra để dành cho một cái gì đó mãi mãi.
Một giờ sau
Lisle biết Olivia là một con tắc kè hoa. Nàng không những biết nhái giọng và tiếng địa phương mà còn có thể bắt chước dáng điệu và phong thái của người khác. Chàng đã thấy nàng diễn ngon lành vai trẻ đường phố, chủ hiệu cầm đồ và người bán rong. Sao nàng không thể dễ dàng sắm vai bà chủ lâu đài kia chứ?
Tuy nhiên, chàng vẫn giật mình khi vừa bước vào phòng tiệc, nàng bỏ chiếc mũ ngớ ngẩn trên đầu ra và lập tức mang dáng vẻ của Quý bà Hargate. Nàng Olivia lãng mạn tuyệt trần đứng bên đường mà chàng đã thấy giờ trở nên sắc lạnh, nghiêm trang và đầy lý trí khi chuẩn bị hướng dẫn đám người hầu.
Ưu tiên trước nhất sẽ là làm cho đại sảnh này thật thoải mái, bởi vì phần lớn thời gian họ sẽ ở căn phòng này. Nichols lựa ra nhóm gia nhân đầu tiên kỳ cọ căn phòng. Sau khi kiểm tra công việc của họ, Olivia hướng dẫn thay đổi đồ đạc và những việc tương tự.
Khi nhận ra mình đang quan sát nàng như vẫn thường quan sát vải phủ xác ướp, chàng chỉnh đốn lại lý trí rồi rời khỏi gian phòng.
Chàng trở về phòng mình, tự giáo huấn bản thân một bài dài bất tận và vô cùng logic về chuyện phụ nữ quyến rũ nhường ấy có thể biến thành cơn bão cát ra sao. Xong xuôi, chàng thu thập các bản đồ và sơ đồ rồi trở lại chỗ nàng.
Lấy dáng vẻ lạnh lùng và lý trí, chàng đưa chúng cho nàng và nói, “Ta nghĩ nếu có những thứ này em sẽ thấy dễ hiểu về tổng quan tòa lâu đài này hơn.”
Nàng nhận lấy tập giấy và trải ra trên chiếc bàn rộng mà gia nhân vừa đặt vào chính giữa căn phòng. Nàng nghiên cứu hồi lâu, trong khi ấy ánh lửa từ lò sưởi và ánh nến cứ nhảy nhót trên những lọn tóc được cô hầu gái sắp xếp lạ mắt rủ xuống từ đỉnh đầu nàng.
“Ôi, Lisle, thứ này tuyệt quá,” nàng nói.
Nếu chàng được cuộn một lọn tóc ấy vào ngón tay thì cảm giác sẽ thế nào nhỉ?
“Em có một số sách và giấy tờ mà ông chú Frederick Dalmay của ngài để lại,” nàng nói. “Có các sơ đồ và bản đồ trong đó, nhưng không có cái gì cụ thể được như những thứ này.”
“Ta vẫn thường làm thế mỗi khi tới xem xét một kiến trúc xa lạ,” chàng nói. “Ta cần phải làm cái gì đó hữu ích. Mưa như trút khiến mọi hoạt động đều chững lại, ngay từ ngày đầu ta đến đây tới giờ.”
“Ở Edinburgh cũng mưa, ngày nào cũng mưa một lúc.” Nàng không nhìn lên. Nàng vẫn đang quan sát các bản đồ, sơ đồ và giấy tờ ghi chép.
“Ở đây thì mưa nhiều hơn một chút,” chàng nói. “Dòng mưa lạnh lẽo bắt đầu đổ ở Coldstream, điểm dừng đầu tiên từ khi Nichols và ta rời Alnwick. Ta nghĩ đây là một trò chơi chữ thú vị của người Scotland. Ở đây mưa suốt. Mãi tới tối qua mới tạnh. May mà việc khảo sát ngôi nhà giúp ta bận rộn không ngừng.”
Chàng cũng mong nó giúp mình xao nhãng tâm tư nữa. Nhưng chuyện này thì không được như ý chàng.
“Ở Ai Cập ngài cũng làm thế này à?” nàng hỏi.
“Phải. Sau khi bọn ta quét sạch cát.”
“Các bản vẽ của ngài đẹp lắm,” nàng nói, cuối cùng cũng nhìn lên.
Chàng nhìn các bản vẽ trải trên bàn, rồi nhìn gương mặt nàng.
Màu hồng phớt xinh đẹp trên đôi má nàng. Có vẻ như làn da nàng vốn thế, mà cũng có thể ánh nến đã tô thắm thêm. Dù lúc này đang là ban ngày nhưng không có nhiều tia sáng lọt qua được hành trình dài từ bên ngoài xuyên vào những ô cửa sổ nhỏ xíu và bức tường dày tới bốn mét rưỡi.
“Em nói thật đấy, không phải nịnh bợ đâu nhé,” nàng nói. “Khả năng phác thảo của ngài quả là xuất sắc.”
Họ trao nhau một ánh nhìn thoáng nét cười, và điều đó nói lên tất cả, chàng nghĩ thế. Họ đang nghĩ về cùng một điều: Ngày đầu tiên chàng gặp nàng, nàng đã nói rằng các bản vẽ của chàng thật là xấu khủng khiếp.
“Phải mất một thập kỷ ta mới tiến được từ ‘xấu xí’ lên ‘xuất sắc’ đấy nhỉ,” chàng nói.
Nàng quay lại với các sơ đồ. Chàng quan sát ngón tay mảnh dẻ của nàng lần theo nét vẽ phòng ngủ lớn ở tầng một.
“Cái này làm mọi thứ trở nên đơn giản,” nàng nói.
Thật thế sao? Hay mọi thứ đã trở nên phức tạp không cưỡng nổi: ngón tay thanh lịch mảnh mai và bàn tay nhỏ nhắn ngọt ngào của nàng, làn da nàng sáng lên trong ánh u minh của đại sảnh cổ kính này, và nụ cười khi nghĩ tới một kỷ niệm chung.
Nàng tiến ra xa một bước, trước khi chàng quá khao khát chạm vào nàng. “Những thứ này giúp ta dễ dàng xác định nên ưu tiên sửa chữa phần nào,” chàng nói. “Nếu có khi nào thuê đến nhân công, ta sẽ biết chính xác họ phải bắt đầu từ đâu và phải làm gì.”
“Đó là lý do hôm nay ngài vào làng,” nàng nói.
“Đúng thế,” chàng đáp.
“Em không tin được là ngài không hề gặp may với dân làng ở đây,” nàng nói. “Ngài đã chỉ đạo nhiều đội nhân công ở Ai Cập cơ mà.”
“Ở đây khác lắm,” chàng nói. “Ta biết giao tiếp bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, và biết kiểu cách của họ. Văn hóa Scotland hoàn toàn khác biệt. Nhưng ta ngờ là cư dân ở Gorewood nói giọng lè nhè một cách có chủ đích, bởi vì họ không muốn hiểu ta. Và ta sẵn sàng đánh cược bất cứ thứ gì rằng họ cố tình nói lè nhè có chủ đích, bởi vì họ không muốn ta hiểu họ.”
“Chao ôi, giá như em hiểu được chuyện này nhỉ,” nàng thốt lên. “Ngài là con trai của chủ nhân tòa lâu đài này. Họ có rắc rối với nó. Lẽ ra họ phải thấy họ có thể phó thác những nỗi lo lắng trong lòng cho chàng chứ.”
“Có lẽ họ thấy ta không đáng được phó thác.”
Nàng vẫy tay xua ý nghĩ đó đi. “Đừng ngốc thế. Ngài chỉ cần đứng yên cũng có thể truyền đi cảm giác tin tưởng rồi, khác hẳn những người khác. Nhưng giờ chúng ta phải giải quyết từ từ từng việc một. Trước hết là chuyện người hầu của chúng ta.”
“Phải, xin lỗi về chuyện đó,” chàng nói. “Ta không định để quản gia của em đi mất.”
Nàng rời khỏi mắt khỏi những bản vẽ, nhìn chàng chăm chú.
“Edwards,” nàng nói. “Em đã định hỏi ngài - nhưng dáng vẻ của tòa lâu đài đã khiến em quên bẵng mọi thứ. Rồi em nhìn thấy cả đám người hầu, trông rất... rất...”
“Sợ sệt kinh hoàng,” chàng tiếp lời. “Cũng không thể đổ lỗi cho họ được. Họ đã phải ngủ trong đại sảnh này, đúng như những người tiền nhiệm của họ từng làm nhiều thế kỷ trước đây. Ta ngạc nhiên là họ không bỏ trốn hết đấy.”
Đôi mắt xanh của nàng ngời lên vẻ chăm chú. “Ngài nghĩ Edwards bỏ trốn?”
“Có lẽ...”
Một tiếng động dữ dội khủng khiếp cắt ngang lời chàng.
Cánh cửa thông sang bếp bật mở, và những người giúp việc trong bếp ùa hết cả vào đại sảnh.
Tiếng gào rú - tiếng người - vẫn tiếp tục, ầm ĩ khắp nơi.
Olivia nhìn người phụ bếp ngồi co ro dưới gác trưng bày, rồi nhìn vào cánh cửa thông sang gian bếp, rồi nhìn Lisle.
“Chắc là Aillier,” chàng nói, gọi tên người đầu bếp nàng đưa từ London tới để phục vụ bữa ăn cho họ. “Gần đây ông ấy có vẻ hơi ủ rũ.”
“Hơi ủ rũ ư?” nàng hỏi.
“Bọn ta phải sống với thịt và pho mát lạnh ngắt,” Lisle nói. “Ông ta sẽ không dùng lò đâu. Ông ta bảo lò nướng là một vật đáng kinh tởm. Ta muốn đá ông ta văng ra ngoài cửa sổ, nhưng chắc ông ta chẳng lọt được qua đó - mà nếu ông ta có lọt thì chúng ta sẽ mất một đầu bếp như đã mất một quản gia.”
Olivia hếch cằm lên. “Em có thể giúp ngài đá ông ta văng ra ngoài cửa sổ,” nàng nói với chất giọng lạnh lùng đầy phẫn nộ không khác gì giọng Quý bà Hargate trong những trường hợp tương tự. “Không nướng bánh mì, chao ôi. Chẳng trách gì người hầu ở đây trông mệt mỏi chán nản tới vậy.”
Đầu ngẩng cao, mắt sắc lẹm, nàng nhìn về phía gian bếp.
Nichols, lúc đó đang nói chuyện với một trong đám người hầu sợ hãi, vội vàng đi tới đóng cửa gian bếp lại. “Thưa tiểu thư Carsington, xin tiểu thư hãy tránh xa, bởi vì ở đó không an toàn đâu. Ông ta đang cầm dao phay đe dọa mọi người. Xin tiểu thư cho phép tôi tước vũ khí khỏi tay ông ta trước đã.”
Olivia nhìn Nichols từ đầu xuống chân. Dù có mặc thêm áo giáp thì cậu ta cũng chẳng nặng tới sáu mươi cân.
“Trông thế thôi nhưng cậu ấy dẻo dai lắm đấy,” Lisle nói, đọc được chính xác ý nghĩ của nàng. “Và rất mạnh mẽ,” chàng nói thêm bằng giọng thì thầm. “Với sức chịu đựng phi thường - hoặc ít nhất đó là điều bọn con gái Ai Cập vẫn đồn.”
Giọng chàng quá thấp và miệng chàng quá sát tai nàng. Hơi thở của chàng ấm nóng, gây cảm giác râm ran trên tai nàng và một vùng nhạy cảm phía sau nó.
Nàng không có thời gian cho chuyện này.
Đàn ông.
“Cảm ơn, Nichols,” nàng nói, “nhưng chúng ta không thể cho phép cậu đi trước chúng ta.” Nàng quay lại nhìn Lisle và nói thêm, với giọng thấp không khác giọng chàng vừa nãy, “Chúng ta không thể để người ta nghĩ chúng ta bị một gã đầu bếp người Pháp điên khùng hăm dọa. Dân làng mà nghe thấy thì sẽ cười chí chết.”
“Xin lỗi, Nichols,” Lisle nói to lên. “Chúng ta không thể để cậu hưởng thú vui này được. Tiểu thư Carsington và ta sẽ giải quyết mọi chuyện.”
Olivia kiêu kỳ khoát tay.
Nichols bước khỏi lối đi.
Sau cánh cửa, tiếng người la hét càng dữ dội hơn. Olivia nhìn Nichols chằm chằm. Cậu mở cửa.
Nàng tiến vào hang cọp.
Olivia cố đi trước Lisle trên lối vào bếp, nhưng chàng chộp lấy eo nàng, nhấc nàng lên, và đẩy nàng ra sau lưng mình. Hành động cuối cùng - đặt nàng xuống - không đơn giản như chàng nghĩ. Nàng nhẹ hơn vẻ bề ngoài; chiếc váy rườm rà chất ngất đã đánh lừa con mắt. Nó kêu sột soạt thật quyến rũ, rất giống tiếng chăn ga khi ta buông người lên. Điều đó khiến chàng nghĩ đến bàn chân thon yểu điệu, những ngón tay duyên dáng, và làn da nàng mềm như lụa dưới tay chàng.
Mọi mơ mộng và khao khát chàng đã ra hết sức dẹp bỏ giờ lại trỗi dậy như những bóng ma. Chàng lại dìm chúng xuống lần nữa.
“Em có thể lên tiếng,” chàng nói. “Nhưng ta sẽ đi trước phòng trường hợp mất kiểm soát nguy hiểm chết người.”
“Đừng có vớ vẩn thế,” nàng nói. “Ngài nghĩ em không thể giải quyết được đám người hầu sao?” Nàng thúc cùi chỏ thật mạnh vào sườn chàng rồi chạy vượt qua, lao vào gian bếp. Vừa lẩm bẩm nguyền rủa, Lisle vừa vội vã theo sát gót nàng.
Qua vai nàng, chàng thấy Aillier mặt đỏ tía tai đang huơ huơ con dao phay, ông ta cao gần hai mét, vai rộng phải tới một mét, và xung quanh có vô số dao cực sắc, chẳng trách gì đám gia nhân sợ khiếp vía, bỏ chạy tán loạn khi ông ta nổi khùng.
Trên đường vào bếp Lisle đã nghe một tràng chửi rủa. Vận dụng ba thứ ngôn ngữ, chàng nghe ra là:
“Cái bếp này, bảo nó đơn giản là một lời tâng bốc ghê tởm đấy! Nó chẳng khác gì một cái hang, cho súc vật. Ai có thể đòi hỏi ta nấu nướng ở một nơi như thế này được chứ!”
Khi Olivia bước vào, ông đầu bếp ngừng lại, miệng há hốc, tay giữ nguyên con dao giữa không trung.
“Đừng để ta ngắt lời ông,” nàng nói. “Ông đang nói cơ mà?”
Aillier nhanh chóng thoát khỏi nỗi ngạc nhiên. “Thật không thể chịu nổi, thưa Quý cô!” ông ta gào lên. “Nơi này chỉ đáng dành cho súc vật. Nông dân, chúng là bọn mọi rợ ngu ngốc nhất trên đời. Làm sao tôi có thể bảo được bọn chúng phải làm gì? Chúng chẳng nói tiếng Anh cũng không biết tiếng Pháp. Không phải người Đức cũng chẳng phải người Ý. Thứ ngôn ngữ của chúng, nó chỉ dành cho lũ gia súc, thật kinh tởm và bẩn thỉu khi bắn ra khỏi mồm ta.”
“Ông ta nói hay gớm nhỉ,” Lisle thì thầm.
“Ta hiểu rồi,” Olivia nói. “Nông dân là thấp kém. Còn gì nữa?”
Aillier khua khua con dao, thoạt tiên vào lò nướng, rồi vào bếp lò khổng lồ - ngay cả ông ta cũng nhỏ hơn nó - thau và bồn rửa bằng đá, xoong chảo chất đống trên cái bàn cổ.
“Đòi hỏi tôi - Aillier - nấu nướng ở một nơi như thế này quả là một sự tra tấn!” ông ta gào lên, nhưng giọng đã bớt hung dữ hơn vừa rồi. “Thật vô nhân đạo khi trói buộc một nghệ sĩ vào nơi này - cái hang đá này. Tôi sẽ không chịu nổi nó đâu.”
Chầm chậm và thận trọng, Olivia nhìn quanh nàng.
Căn bếp chiếm trọn tầng một của chái Bắc tòa lâu đài. Dù có những bức tường dày sụ và bếp lò khổng lồ, không gian còn lại vẫn rất rộng rãi. Một trong ba cửa sổ lớn được cải tạo làm chỗ đặt lò nướng. Nhưng, ngay cả trong những ngày mưa, gian bếp này vẫn sáng hơn nhiều gian bếp Lisle từng thấy. Trong nhiều ngôi nhà ở Anh, bếp còn nằm sâu dưới tầng hầm.
“Theo ý ta ta thì nó ấn tượng đấy chứ,” Lisle lẩm bẩm.
Không ai để ý đến chàng.
“Đây không phải là sự tra tấn,” nàng nói với Aillier. “Phải đợi cho đến khi căn hầm được sửa chữa xong thì mới đến màn tra tấn. Cái chúng ta có ở đây là những điều kiện đầy thách thức. Một đầu bếp giỏi phải biết nấu trong mọi hoàn cảnh. Có nhớ thách thức mà hoàng tử Talleyrand đã đặt ra cho đầu bếp vĩ đại Carême không? Nấu ăn suốt một năm mà không được lặp món dù chỉ một lần, chỉ được sử dụng những sản phẩm đúng mùa, có xuất xứ trong vùng. Nhưng nếu ông không thể đối mặt với thách thức này, thì thật chẳng đáng mặt. Chẳng ích gì khi mong ông có những kỹ năng đáp ứng một đòi hỏi cao hơn hoặc tự chủ với kỹ năng vốn có. Nếu ông không xứng đáng với nhiệm vụ này...”
“Không xứng đáng!”
“Làm ơn nhớ giùm gã có một con dao to đùng sáng loáng trong tay, với cái lưỡi sắc lẹm,” Lisle nói khẽ.
“Nếu ông quyết định thôi việc, thưa ông Aillier,” nàng nói tiếp, “thì miễn phải bực dọc về mọi thứ đi, ông cứ thế mà thôi việc. Một phụ nữ nào đó trong làng sẽ chuẩn bị bữa ăn cho chúng tôi cho tới khi tôi tìm được một đầu bếp phù hợp từ London. Lần này sẽ phải là một người Roman. Tôi nghe bảo họ rất dũng cảm khi đối diện với hoàn cảnh khó khăn.”
Sau khi tuôn ra một tràng nhiếc móc, nàng quay người bước ra ngoài, hết sức lạnh lùng.
Lisle vẫn không nhúc nhích. Trong một chốc, chàng chỉ có thể đứng yên, nhìn chằm chằm. Chàng thấy Aillier nhìn nàng bước đi, miệng ông ta há hốc, mặt sa sầm.
Lisle gồng người lên. Nhưng ông đầu bếp chầm chậm hạ bàn tay cầm con dao phay xuống.
Lisle quay lưng bước ra hành lang. Không có màn phi dao ném kéo, nhưng sự im lặng như tờ trong bếp cũng thật đáng ngại.
Rồi chàng nghe thấy tiếng Aillier, lầm bầm gì đó về những người Roman đáng nguyền rủa và thứ nước xốt không ngửi nổi của họ. Tiếp theo đó là tiếng va nồi quẹt chảo ầm ầm.
Lisle ra đến nửa hành lang thì thấy nàng đang đứng đợi. Rồi chàng chợt thấy một cảnh tượng vụt qua trong đầu, sống động như tranh vẽ: Aillier vung con dao phay đại bự - và Olivia, nhỏ xíu so với ông ta, mặc bộ váy có ống tay áo to phồng và chân váy bồng bềnh, những lọn tóc ghim chặt vào những ống xoắn trông rất ngớ ngẩn. Olivia, cằm hếch lên, lạnh lùng ngang nhiên hạ thấp lão đầu bếp đang giận sôi gan. Vẻ mặt của của Aillier. Vẻ mặt của nàng.
Ôi Chúa ơi. Ôi Chúa ơi. Olivia.
Olivia dừng lại khi nghe thấy tiếng động ấy - ai đó đang bị bóp cổ, thoạt tiên nàng nghĩ thế. Aillier. Ông ta đã lao vào hành lang chăng? Tấn công Lisle? Tim đập loạn xạ, nàng vội nhìn quanh.
Trong không gian tối mờ, nàng nhìn thấy Lisle, dựa lưng vào tường, cúi gập người xuống, ôm chặt bụng...
Cười ngặt nghẽo.
Nàng quay lại chỗ chàng. “Không phải ở đây đâu, ngốc ạ,” nàng hạ thấp giọng nói. “Ông ta sẽ nghe thấy đấy!”
Aillier vẫn đang lầm bầm một mình, đá thúng đụng nia, nhưng họ đứng cách bếp chỉ chừng một mét.
Lisle nhìn nàng, mím chặt môi, nhưng tiếng cười khùng khục vẫn thoát ra.
Nàng nắm cánh tay chàng lôi về phía cửa rồi vào đại sảnh. Chàng bắt đầu bước theo, nhưng vừa đi được vài bước, chàng lại dựa vào tường, tay bịt miệng.
“Lisle,” nàng nói.
“Em,” chàng nói. Chàng chỉ nói được thế rồi lại không nín được, tiếp tục cười ngặt nghẽo.
“Lisle.”
“Buồn cười quá. Em. Ông ta.”
“Ngài sẽ làm mình bị thương mất thôi.”
“Em,” chàng nói. “Chỉ có mình em như thế.” Rồi chàng lại cười khùng khục.
Nàng cứ đứng đó nhìn chàng, lòng đầy băn khoăn. Khi nàng mới đến, trông chàng mệt mỏi bơ phờ như vậy, sao bây giờ...
Chàng lấy khăn tay ra lau mắt. “Xin lỗi,” chàng nói.
“Ngài mệt lắm rồi,” nàng bảo.
“Phải,” chàng đáp. “Có lẽ thế.”
Chàng đứng thẳng dậy. Rồi chàng lại tiếp tục cười, cười đến thắt cả ruột. Nàng đứng như thôi miên, mỉm cười ngơ ngác, trong khi đó trái tim nàng dạt dào cuồn cuộn chẳng khác gì những mảnh bụi vàng lấp lánh đã nhảy nhót quanh chàng chiều nay. Nàng đang phải lòng một điều gì đó, mê ly và choáng ngợp, bởi vì chàng đang cười, tiếng cười ấy thật tinh nghịch và vui thú, nàng chẳng tài nào đuổi được âm thanh ấy ra khỏi trái tim mình.
Cuối cùng chàng cũng ngừng được, lại lau mắt và nói, “Xin lỗi em. Chẳng hiểu sao... Thật tình, Olivia ơi, em quả là không gì sánh được.”
Chàng nắm lấy bàn tay nàng, để dẫn nàng ra cửa, nàng tưởng thế.
Nhưng rồi nàng dựa lưng vào tường, ngay góc cạnh cửa, bàn tay chàng ôm lấy gương mặt nàng, và nàng cảm nhận được tiếng cười khi miệng chàng phủ lên miệng nàng.