Tôi chỉ phải ở bệnh viện có một đêm - vì tất cả các mũi khâu đều rách toạc, những vết bầm dập cũng như những mảnh kiếng đâm vào người. Và chỉ một đêm thôi cũng quá nhiều rồi, với tôi.
Bạn có biết trong bệnh viện người ta nghĩ tráng miệng là như thế nào không? Ờ, thạch rau câu Jell-O. Có trái cây bên trong. Thậm chí còn không có kẹo dẻo mini nữa kia. Ai cũng biết Jell-O là món salad, không phải món tráng miệng.
Hơn nữa, trong bệnh viện thậm chí còn không có cả bồn tắm. Nếu muốn sạch sẽ, thì hoặc là dùng vòi sen, hoặc là kì bằng miếng bọt biển.
Sao cũng được. Tôi cố dùng thời gian của mình một cách thông thái. Ý là thời gian trong bệnh viện ấy. Tôi chuồn khỏi tầng của mình để đi thăm Julio, và vui mừng thấy anh đang hồi phục tốt sau những chấn thương trong vụ nổ hôm trước. Anh sẽ quay lại làm việc vào tháng tới, không lo lắng gì.
Tôi cũng ghé phòng Jordan lúc còn ở đó. Ý tôi là trong bệnh viện ấy.
Jordan khá xấu hổ khi gặp tôi, còn Tania - vợ chưa cưới của anh ta - tỏ ra thù địch thấy rõ. Nếu mà không biết, có khi tôi sẽ nghĩ cô ta thấy bị tôi đe doạ hay sao đó.
Nhưng tôi chả hiểu vì sao lại phải thế. Đĩa đơn mới nhất của cô ta, "Gái hư", mới đạt vị trí thứ 10 trên bảng xếp hạng Total Request Live hôm trước kia mà.
Dù sao tôi cũng mong điều tốt đẹp cho họ. Tôi nói tôi nghĩ họ là một cặp hoàn hảo. Tôi không nói dối đâu.
Tôi chỉ phải mất một dêm ở bệnh viện, nhưng được nghỉ phép 2 tuần - có lương - với vị trí trợ lý quản lý ở Fischer Hall. Tôi cho đó là cách người ta khen thưởng bạn ở New York này khi bạn tình cờ lật tẩy 2 lần giết người của sếp bạn. Ngay cả nếu bạn chưa tích luỹ được nhiều ngày nghỉ ốm đến thế.
Khi tôi quay lại làm việc, trời đã bắt đầu trở lạnh. Những tán cây ở washington Square Park đang đổi màu, chuyển thành những sắc đỏ và vàng mờ nhạt khi lẫn với những màu sắc mà lũ sinh viên năm nhất dùng để nhuộm tóc chuẩn bị cho ngày lễ Cha mẹ.
Nghiêm túc luôn. Cứ như thể tôi đang làm việc trong một trường đại học đào tạo hề xiếc ấy.
Mọi thứ ở Fischer Hall cũng đã thay đổi theo nhiều cách khác nữa từ lúc tôi đi. Một trong số đó là, giờ đây khi Rachel đã bị tống vào tù chờ xét xử, tối sắp có sếp mới. Tôi chưa biết là ai. Họ vẫn đang phỏng vấn các ứng viên.
Nhưng Ts. Jessup nói sẽ cho tôi chọn trước.
Tôi đang nghĩ sẽ thật tốt nếu lần này được làm việc dưới quyền một người đàn ông. Đừng hiểu lầm tôi, các sếp nữ vẫn rất tuyệt và này kia. Nhưng nếu tránh được cảnh có quá nhiều "estrogen" trong văn phòng như thế một thời gian cũng tốt.
Sarah cũng đồng ý như vậy. Cô và lũ sinh viên phụ việc giở đã thoải mái với tôi hơn nhiều, khi mà, thì đấy, tôi đã liều mạng để bắt cái người đã giết hại các bạn cùng toà nhà với chúng. Giờ thì hầu như tôi không nghe nói mấy về Justine nữa. trừ hôm trước, lúc Tina quay sang tôi và bảo, "Chị biết không, Justine thường không bao giờ mặc quần jeans đi làm như chị. Chị ấy bảo em đấy là vì chẳng bao giờ tìm được size quần đủ bé để vừa với mình. Em kiểu như lúc nào cũng ghét Justine vì chuyện ấy."
Ngay cả Gavin cuối cùng cũng chịu nghe tôi, và đã hoàn toàn bỏ cái trò lướt thang máy. Thay vào đó, thằng nhóc giờ chuyển sang khám phá các cống rãnh trong thành phố. Nhưng tôi đoán nó cũng sắp bỏ cái trò đó luôn rồi. Ý tôi là, mùi mẽ bốc ra không hẳn đang khiến cu cậu trở thành một cư dân được ưa thích cho lắm trong tầng nhà của mình.
Ồ, mà nhà Allington cũng chuyển đi rồi. Qua toà nhà ngay cạnh - cái toà mà Donatello hay thằng ninja rùa đột biến tuổi thiếu niên nào đấy đã nhảy từ Fischer Hall sang trên phim ấy. Nhưng dẫu sao cũng đủ xa để bà Allington cảm thấy mình và lũ chim sẽ thoải mái hơn... nhất mà khi giờ đây họ được sống trong một toà nhà mà không phải chia sẻ với 700 sinh viên đại học và một nhóm nhân viên khi cư trú.
Lũ sinh viên cũng chẳng đau buồn gì khi thấy nhà Allington chuyển đi, nhưng với con trai họ thì lại khác.
Chris bỗng nhiên trở thành một dạng người nổi tiếng, dùng tai tiếng tạo dựng được từ sự si mê của Rachel dành cho mình - các báo chí đều giật tít như thế trên trang nhât - làm bàn đạp cho kế hoạch mở câu lạc bộ đêm riêng của mình ở SoHo.
Trường luật, rõ ràng, đã trở thành giấc mơ của ông bố dành cho cậu. Và giờ đây, khi các lời mời chào cho câu chuyện của mình đang trút xuống như mưa từ Kênh Cuộc sống và tạp chí Playboy, Chris đã thoát khỏi cái ách làm con và đang theo đuổi những kế sách của riêng mình.
Tôi thì đang cá là những "kế sách" ấy sẽ khiến cậu ta bị tống vào tù khá sớm.
Các cư dân, hội sinh viên, và cả nhân viên Fischer Hall đã nghĩ ra một cách tưởng nhớ mà chúng tôi cho là xứng đáng với Elizabeth Kellogg và Roberta Pace: chúng tôi trồng hai cái cây - hai cây sơn song sinh - trong một vị trí đẹp ở công viên, với một tấm biển phía dưới dề "tưởng nhớ" và kê tên hai đứa ra, ngày tháng năm sinh và mất của chúng, cùng dòng chữ "Họ Mãi Được Nhớ Đến". Hàng triệu người sẽ nhìn thấy - cả tấm biển lẫn hai cái cây mà mấy đứa bên khoa Làm vườn bảo với tôi sẽ nở hoa vào mùa xuân - cũng như hàng trăm sinh viên sẽ được lợi từ học bổng, cũng do chúng tôi khởi xướng, mang tên của Beth và Bobby.
Tôi vô cùng háo hức được thấy mấy cái cây trổ bông. Đấy là điều duy nhất tôi có để mong chờ trong những ngày này, vì cuối cùng tôi đã biết Cooper nghĩ gì về mình.
Không phải anh biết tôi biết điều đó đâu. Anh chắc chẳng hề nghĩ tôi còn nhớ. Đấy là lúc anh xông ra ban công căn nhà áp mái, chỉ vài giây sau khi bà Allington đập Rachel bất tỉnh nhân sự bằng chai Absolut. Anh đã nhận được tin nhắn tôi để lại trong điện thoại, và đã chạy vội đến toà nhà cùng thanh tra Canavan, chỉ để nghe được từ miệng bác Pete - người đã thấy Rachel và tôi đi vào căn nhà áp mái trên màn hình - rằng chẳng những Rachel còn sống, mà cả hai chúng tôi rõ ràng cùng lên nhà thăm bà Allington (chất lượng hình ảnh trên màn hình an ninh không đủ nét để bác Pete thấy lúc đó Rachel thật sự đang cầm một cái dùi cui dí vào cổ họng tôi, và đây cũng chính là điều mà chúng tôi đang chấn chỉnh lại trong toàn campus).
Trong khi thanh tra Canavan xử lý Rachel đang bất tỉnh và bà Allington đang lảo đảo, Cooper quỳ xuống cạnh tôi trong mưa, hỏi tôi có sao không.
Tôi còn nhớ đã chớp mắt nhìn anh, tự hỏi liệu điều tôi đang nhìn thấy lúc ấy có phải chỉ là một dạng ảo giác kì cục nào đó thôi không, vì hiệu ứng từ cái nhức buốt của tiêu cay trong những vết khâu, vì những mảnh kính vỡ đâm vào lưng, và cái vai đau của tôi, rồi các thứ.
Có lẽ đấy là lý do khiến tôi cứ nói đi nói lại, theo như tôi nhớ, rằng "Hứa với em là anh sẽ chăm sóc Lucy. Khi em chết, hứa với em là anh sẽ chăm sóc Lucy đi."
Cooper đã cởi cái áo khoác da ra - cái áo dính đầy vết máu của tôi - và quàng quanh người tôi. Nó vẫn còn hơi ấm của anh. Tôi vẫn nhớ điều đó. Và còn có cả mùi của anh nữa.
"Dĩ nhiên anh sẽ chăm sóc nó," Cooper đã nói với tôi như thế. "Nhưng em không chết đâu. Xem nào, anh biết em đang rất đau. Nhưng cứu thương đang trên đường đến rồi. Em sẽ ổn thôi, anh hứa đấy."
"Không, em không ổn," tôi đã nói thế. Bởi vì lúc ấy tôi chắc chắn là mình sắp chết. Về sau, cứu thương bảo rằng lúc ấy tôi đang sốc, vì đau, vì lạnh, vì mưa và vì mọi thứ.
Nhưng lúc đó tôi làm sao biết được.
"Em sẽ chết ở tuổi 28," tôi đã thông báo với cái mà tôi cho là một ảo giác về Cooper. "Một ngôi sao một hit. Em chỉ có thế. Nhớ bảo người ta khắc như thế lên bia mộ em. Đây là nơi an nghỉ của một ngôi sao một-hit."
"Heather," Cooper đã nói. Anh đã mỉm cười. Tôi chắc chắn điều đó. Rằng anh đã mỉm cười. "Em sẽ không chết. Và em không phải là một ngôi sao một-hit."
"Ồ, đúng rồi." Tôi đã cười thành tiếng. Rồi tôi bắt đầu khóc. Và tôi cứ thế không dừng được. Hoá ra đấy cũng là một triệu chứng khá thông thường của sốc. Nhưng mà, lúc đó tôi vẫn không biết. "Rachel nói đúng," tôi nhớ mình đã nói như thế, một cách cay đắng. "Cô ta đã đúng! Em đã có tất cả và em thổi tung tất cả. Em là kẻ thua cuộc bự nhất thế giới."
Đấy là lúc Cooper đã đỡ tôi ngồi xuống, ôm lấy tôi, và nói rất rành mạch, "Heather, em không phải là một kẻ thua cuộc. Em là một trong những người dũng cảm nhất anh từng gặp. Bất cứ ai khác, nếu phải trải qua những chuyện như em, nào là mẹ em, rồi em trai anh, rồi sự nghiệp của em và tất cả mọi thứ, ắt hẳn họ đã bỏ cuộc rồi. Nhưng em vẫn tiếp tục. Em đã làm lại. Anh lúc nào cũng ngưỡng mộ cái cách em tiếp tục chiến đấu, dù có bất cứ chuyện gì xảy ra."
"Em lấy làm tiếc phải nói điều này, nhưng ý anh là như con thỏ hồng bé xíu với cái trống ấy hả?" ngay lúc đó, tôi đã đáp lại như thế.
Tôi thích nghĩ đấy cũng là do sốc.
Cooper cũng hùa theo. Anh nói, "Chính xác là như con thỏ hồng bé xíu với cái trống ấy. Heather, em không phải là một kẻ thua cuộc. Và em sẽ không chết. Em là một cô gái ngoan, và em sẽ ổn thôi."
"Nhưng mà... gái ngoan bao giờ cũng về đích sau cùng." Với bộ não giăng dầy những đám mây sốc của mình, điều khẳng định này nghe có vẻ có vấn đề, sau cuộc nói chuyện trước đó với người phụ nữ đã định giết tôi.
"Nhưng anh tình cờ lại thích gái ngoan," Cooper đã nói thế đấy.
Và rồi anh hôn tôi.
Chỉ một lần thôi. Và hôn vào trán. cái kiểu, thì đấy, anh trai của bồ cũ của bạn sẽ hôn bạn, nếu giả sự bạn vừa bị một kẻ giết người điên khùng tấn công và đang bị sốc, và anh ấy nghĩ đằng nào bạn cũng chẳng thể nhớ.
Nhưng tôi đã nhớ. Và vẫn nhớ.
Cooper nghĩ tôi dũng cảm. Không, từ từ: anh ấy nghĩ tôi là một trong những người dũng cảm nhất anh ấy từng gặp. Và anh ấy thích tôi. Vì anh tình cờ thích các cô gái tốt.
Chậc, tôi biết như thế cũng chẳng có gì nhiều. Nhưng mà biết gì không?
Thế là đủ. Ngay lúc này.
Ồ, và còn một điều nữa.
Tôi sẽ không bao giờ quay lại cái cửa hàng ấy để mua mấy cái quần jeans size 8 đó nữa. Size 12 chẳng có gì sai cả, là một. Hai là, tôi quá bận. Tôi đã qua 6 tháng thử việc. Tôi sẽ bắt đầu năm nhất ở New York College vào tháng 1 tới. Và lớp học đầu tiên của tôi ư?
Nhập môn xét xử tội phạm.
Thì, cũng phải bắt đầu đâu đó chứ, đúng không nào?