Gã ưa chính trị cấp tiến và ghiền sô cô la. Năm năm trước, tiểu thư Lacy-Grey Danh Giá quả đã ngất đi trước dịp may được gã mời nhảy một điệu đồng quê - một thí dụ của loại sự kiện mà các vị bằng hữu luôn thấy hứng thú khôn cùng và mê mẩn nhai đi nhai lại đến phát ngấy trong các cuộc trà dư tửu hậu. Người ta độc mồm độc miệng truyền tai nhau rằng một lời cầu hôn sẽ hạ gục cô ả cả đời và đề nghị từ kẻ thấp hèn sẽ giết chết ả ngay tắp lự.
Vì lúc này đây Christian đang nằm dài, đầu gối lên bờ lưng ong mềm mại của ả, những ngón tay biếng nhác mân mê giữa lần tất và phần da thịt lộ ra phía trên cái nịt tất màu lơ pha vàng, gã đành phải kết luận rằng bạn bè gã phỏng đoán có hơi chệch một tẹo. Ngay trước mắt gã, ả nom vẫn sống tốt như thường. Cổ chân ả điệu đàng đan tréo nhau, nhẹ nhàng đung đưa phía trên gã.
Gã khum tay ôm lấy mông ả, hôn lên cái hõm xinh noi eo lưng ả rồi ngồi thẳng dậy, tựa vào khuỷu tay. “Bao giờ thì Sutherland về?”
“Trong hai tuần nữa thì chưa. Ít nhất là vậy.” Người từng là tiểu thư Lacy-Grey xoay mình lại mỉm cười, phô bày bộ ngực đẫy đà hơn và phần eo hơi phình ra. Họ đã là nhân tình được ba tháng. Christian lướt mắt qua những thay đổi tinh tế kia và nhướng mi, lặng thinh.
“Giá y đi luôn thì hay,” ả nói tiếp, hai bàn tay đan lại phía trên đầu. “Mọi chuyện đang thật tuyệt.”
“Hơn cả sô cô la,” gã phụ họa.
“Thật chứ?”
Gã ngó quanh, câu vừa rồi nhắc gã nhớ. Cái bình cao ngỏng nằm đó chờ đợi, ấm nước khẽ bốc hơi trên lò sưởi. “Xin lỗi một chút nhé.” Gã rời khỏi giường.
“Anh là đồ đáng ghét.”
Gã đáp lại ả bằng cách cúi đầu khoa trương kèm theo cái nháy mắt rồi tới bên ấm, rót nước sôi vào sữa lạnh với tỷ lệ đều chằn chặn, nạo sô cô la vào bình rồi gắn máy xay vào. Dưới bàn chân trần của gã, thảm trải sàn lạnh và mướt. Gã dùng cả hai tay quay máy xay - việc này đáng lẽ phải làm trên bếp lửa, không phải trong bình, nhưng điều kiện vật chất vào giữa đêm trong phòng ngủ của một tên đàn ông khác không phải lúc nào cũng như ý - rồi gã đổ hỗn hợp sủi bọt vào tách.
“Không tưởng tượng nổi là ai lại có thể uống thứ đó mà không có lấy một hạt đường,” ả bình phẩm.
“Đã có em là đường rồi, kẹo ngọt của anh,” gã đáp trả ngay. Gã nhấp một ngụm, trần truồng đứng cạnh bàn. “Sao nữa nào?”
Ả cố nặn một cái bĩu môi chán chường nhưng nó lại biến thành nụ cười. Ả lại vươn tay về phía trước, thở dài và cong người đầy gợi tình, bàn chân đi tất trượt lên trượt xuống trên giường. “Ôi, thật đấy, em hy vọng Sutherland sẽ không bao giờ về.”
“Đáng lẽ em nên mong y về ngủ với em, cô nàng của anh ạ, mau mau chóng chóng ấy.”
Ả đăm đăm nhìn hai bàn tay mình rồi hạ tay xuống. Đôi môi ả lần nữa chun lại thành cái bĩu môi khêu gợi kia. “Y chẳng buồn bận tâm đâu.”
“Ồ phải,” Christian bất cần đáp.
Ả vừa xòe tay áp lên cái bụng ngày càng nở nang vừa liếc xéo gã.
Gã buông tách sô cô la, cúi xuống ngang người ả, hôn lên ngực ả, lùa tay vào tóc ả rồi hôn cổ ả. “Đáng không?” tiếng thì thào của gã kề sát tai ả.
Ả vươn tay ôm vòng lấy vai gã mà siết thật chặt. Sự mềm mại của ả lại khêu gợi gã. Gã dụi mặt vào da thịt nàng trong khi ả đeo lấy gã như thể sắp chết chìm, gã nắm lấy cơ hội mà thời khắc mang lại để làm nhơ phẩm hạnh của ả thêm lần nữa. Ả dường như khoái lạc. Còn gã thì Chúa mới biết.
Một ngọn nến đơn độc tan chảy dần ở chân cầu thang, soi sáng cánh tay trái và li áo trên pho tượng cẩm thạch tạc nữ thần nông nghiệp Ceres đang đăm đăm cúi nhìn một bó lúa mì với vẻ ủy mị quá mức. Christian bước xuống thận trọng nhưng không lén lút, vài tuần trước gã đã lập khế ước với tay quản gia bằng một thói quen đơn giản là để lại ba cậu-bé-vàng[1] cạnh cây nến khi rời đi. Gã đang gom chúng lại trong túi áo, cảm nhận những đồng vàng qua lớp găng tay thì nghe thấy tiếng bước chân phía dưới. Gã khựng lại ở chiếu nghỉ, bàn tay đặt trên tay vịn cầu thang.
[1] Tiếng lóng, chỉ đồng ghinê - một loại tiền vàng từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX ở nước Anh.
“Edith?” Một giọng đàn ông bồng bềnh dạt tới, một tiếng vọng yếu ớt trong sảnh.
Quỷ tha ma bắt.
Christian đứng im như thóc. Lesley Sutherland bước ra từ phía dưới cầu thang, cởi nút áo choàng. “Eydie?” Y hỏi lại, vừa vuốt món tóc mai đỏ rực vừa ngước lên.
Có tiếng đồng hồ tích tắc trong sảnh. Christian chưa từng để ý đến nó nhưng trong khoảnh khắc lặng như tờ này, nó giống một cái máy tính nợ lanh lảnh, không thể vãn hồi. Một... hai... ba... bốn...
Tới bốn thì cái gì phải đến cũng đến. Nụ cười mới nhếch một nửa lụi đi trên mặt Sutherland. Môi y hé mở. Christian chả đợi tiếng nào buột ra, và chẳng có gì thật: chỉ sự im lặng, mặt Sutherland mỗi lúc một trắng bệch cho tới khi miệng y mím chặt lại và khắp mặt đỏ bầm chỉ trừ những nếp da hai bên cánh mũi và quanh miệng y.
Sáu... bảy... tám...
Christian nghĩ đến vài câu mở lời, tất thảy đều khôi hài và hướng vào gã, trừ câu cổ điển: Về sớm thế, anh bạn?
Gã nghiến răng kìm lại. Sutherland nom vẫn đang sốc. Cảm giác tê cứng nhói buốt khó chịu ở bàn tay phải khiến gã nhận ra mình đã siết chặt tay vịn cầu thang đến độ nào. Gã buông tay nhưng thấy càng nhức hơn và một cảm giác dị thường trào lên trong lòng gã như thể cầu thang dưới chân gã vừa chao đảo lại vừa bất động.
Gã co duỗi bàn tay, mở ra, nắm vào.
Hành động đó trông như nhắm thẳng vào Sutherland. Y nhìn chằm chằm bàn tay Christian. “Jervaulx,” y nói bằng giọng điềm tĩnh đến phi lý. “Tôi sẽ giết ngài vì chuyện này.”
Y thậm chí còn phát âm sai, quá nhiều J và X, đúng kiểu con buôn mới chen chân được vào giới quý tộc. Trong thế mất cân bằng kỳ quái của khoảnh khắc đó, tâm trí Christian lố bịch tua đi tua lại những âm chuẩn trong tước vị của mình, Sherooh - Shervoh - Shervoh...
Gã nín thinh, xòe rộng bàn tay rồi lại siết thành nắm đấm, động tác ấy không hiểu sao rất khó. Cánh tay gã nặng trịch, cơ hồ đã chết, còn ngón tay ngứa ran và buốt nhói đến tận xương.
“Các bạn của ngài,” Sutherland nói, giọng có phần lớn hơn, hung hãn hơn. “Hãy nêu tên các bạn của ngài.”
“Durham. Và Đại tá Fane.” Sự này là không thể tránh khỏi. Nhưng gã ngạc nhiên thấy cảm giác trong người mình quá lạ.
Đồng hồ đếm thêm mười giây nữa trong khi hai người đọ mắt.
“Đồ đê tiện. Cút khỏi nhà tao!”
Tiếng gầm phóng ra giữa chừng bị đè nghẹt lại. Mặt Sutherland quá bầm đỏ và uất nghẹn, đến độ Christian nghĩ y có thể nổ tung và chìm trong vũng máu đến nơi.
“Được thôi,” Christian khẽ nói. Gã xuống cầu thang, đi qua kẻ kia, động tác cố ý vừa bị động vừa dè dặt. Surtherland không chừng đang khao khát giết gã, mà y cũng có cái quyền đó, nhưng khiến một người đàn ông chết bất đắc kỳ tử trong chính sảnh nhà mình thì đến Christian cũng chả ham.
Với lại, gã thấy cần không khí trong lành. Gã thấy say. Bàn tay phải của gã vẫn cứng đờ và lóng ngóng khi mở cửa. Gã kéo cửa đóng lại sau lưng bằng tay trái xong xuôi thì vấp chân, loạng choạng trên rào chắn bằng sắt ở bậc cấp.
Mặt trăng tròn vành vạnh chiếu sáng một mảng sương ở cuối phố: một màn sương lam phủ mờ lên dãy nhà đen sậm, từ từ dâng lên. Christian bám lấy rào chắn, trân trối nhìn dọc xuống đồi. Rõ ràng trong người gã có thứ gì đó không ổn. Gã cảm thấy khó ở, chóng mặt và... lạ lùng. Một ý nghĩ kỳ quặc rằng mình bị đầu độc choán lấy tâm trí gã.
Eydie? Sô cô la. Là Eydie đầu độc gã? Vì cái chết toi gì cơ chứ?
Tim gã đập nhanh khủng khiếp, gã ráng nuốt nước bọt, cố hãm nó lại, cố gắng động não.
Ít phút sau, gã buông rào chắn ra. Không khí lạnh cơ hồ nâng đỡ gã. Gã hít thở thật sâu và cảm thấy thật là mình hơn. Một hình thù tối sẫm nằm ở bậc tam cấp: gã liếc nhìn thì nhận ra cái mũ của chính mình.
Gã đi xuống bước qua nó, rồi lại nhớ ra rằng đó là mũ của mình. Xe ngựa đợi gã cách đó hai con phố. Gã do dự nhìn chiếc mũ rồi bước tiếp. Gã không thể nghĩ ra vì sao Eydie lại đầu độc gã. Điều đó thực sự khiến gã phiền não. Nhưng lúc này, khi dạo bước trên phố, gã cảm thấy khá hơn. Mọi thứ rồi sẽ tự đâu vào đấy. Khi gã tới chỗ chiếc xe độc mã của mình, tay đánh xe nhanh nhẹn nhảy xuống mở cửa.
Cass và Devil lao bổ ra, hoan hỉ ngoáy những cái đuôi bông xù. Christian tựa vào thành xe và cho phép từng con nhảy chồm lên người mình. Gã dùng một tay vuốt ve tai chúng, gọi Devil đang mải hít hà những hố than bên vệ đường lại rồi trèo vào trong xe. Cass nằm nghiêm trang dưới chân Christian nhưng Devil dụi cái mũi đốm vào găng tay gã và tự nhảy lên ghế ngồi.
Christian vuốt ve đầu chú chó săn lông xù. Khi xe ngựa chuyển bánh, gã đưa tay định nhấc mũ thì nhận ra rằng mình chẳng còn mũ nữa.
Gã ngả đầu vào lưng ghế. Sutherland. Sutherland muốn trả đũa.
Christian chỉ muốn ngủ. Gã nắm bàn tay phải lại mặc cảm giác yếu ớt nặng trịch chưa nguôi tan hết. Gã mơ màng nghĩ rằng thói quen thuận tay trái của mình cũng có một lần hữu dụng, vì nếu không gã chẳng thể nhấc nổi khẩu súng.
“Con vẫn chưa hiểu. Và chắc chắn con sẽ không bao giờ làm nổi. Sao cha có thể trông đợi chút nghiêm túc thực sự nào từ một kẻ thuộc...” Archimedea Timms ngừng lại, cố tìm một từ thích hợp “... hạng như anh ta hả cha?”
“Rót cho ta một tách trà được không, Maddy?” cha nàng đề nghị, vẫn với giọng điệu hòa nhã khiến người ta không thể khai nổ một cuộc tranh luận cho ra hồn.
“Thứ nhất, anh ta là công tước,” nàng nói với lại khi nện gót qua phòng ăn để tìm Geraldine vì chuông gọi bị hỏng. Quãng thời gian tìm chị hầu gái, trông coi việc múc nước và đặt ấm lên bếp rồi quay lại phòng khách không đủ để nàng quên đi phần kế tiếp trong mạch tư duy của mình. “Một công tước hiếm khi quan tâm nghiêm túc đến những chuyện thế này, bình phương ở phía trên tay trái cha ấy, nên hoàn toàn dễ hiểu khi phần tích phân của anh ta suốt tuần qua vẫn chưa xong.”
“Không nên nóng vội, Maddy. Những thứ như thế cần làm hết sức cẩn thận. Cậu ấy thong thả đấy mà. Ta ngưỡng mộ cậu ấy vì điều đó.” Tay cha nàng rờ rẫm thấy con số Hai bằng gỗ liền gạt tới chỗ lũy thừa của s.
“Anh ta không thong thả mà cũng chẳng quan tâm một tẹo teo đâu ạ. Anh ta đang nhởn nhơ khắp thành phố, vùi mình vào những trò thù tiếp trần tục. Không hề cân nhắc đến uy tín của cha hoặc của chính mình.”
Cha nàng mỉm cười, mắt nhìn thẳng trong khi lần tìm biểu tượng dấu chia rồi thêm nó vào dãy chữ và số bằng gỗ trên tấm khăn trải bàn bằng len đỏ trước mặt, ngón tay ông lướt trên những khối gỗ, kiểm tra chúng bằng xúc giác. “Con có thực chắc chắn về chuyện thù tiếp trần tục không, Maddy?”
“Chỉ cần đọc báo là thấy. Không một trò vui trần tục nào vắng mặt anh ta trong suốt mùa xuân này. Mà chuyên luận chung của hai người theo lịch sẽ phải báo cáo vào tối thứ Ba! Rồi con sẽ phải là người báo hủy nó, con biết, bởi vì anh ta sẽ chả buồn nghĩ đến. Ngài Chủ tịch Milner sẽ nổi trận lôi đình, mà cũng đúng thôi, vì ai sẽ thay chỗ Jervaulx trên diễn đài được chứ?”
“Thế thì con sẽ viết phương trình lên bảng còn ta trả lời câu hỏi.”
“Đó là nếu Ái hữu Milner cho phép,” nàng ủ ê đáp. “Ông ấy lại chả bảo việc đó là phạm luật nhất ấy chứ.”
“Không ai bận tâm đâu. Chúng ta đều vui với sự có mặt hằng tháng của con mà, Maddy. Con luôn được đón chào. Chính Ái hữu Milner có lần bảo ta rằng gương mặt của một phụ nữ làm sáng hội trường khá nhiều đấy.”
“Tất nhiên là con sẽ đến. Chẳng lẽ con để cha đi một mình?” Nàng ngước nhìn chị hầu gái đang bưng khay trà đến. Geraldine đặt trà xuống, Maddy liền rót cho cha, cầm tay ông rồi dịu dàng dẫn tới chỗ đĩa và quai tách. Các ngón tay của ông nhợt nhạt và mềm nhũn sau những năm tháng làm việc trong bốn bức tường, khuôn mặt ông không hề nhăn nheo mặc cho tuổi tác. Từ trước khi mất đi thị lực, ở ông đã luôn toát ra khí chất mơ hồ, khó nắm bắt. Sự thực là thói quen sống của ông không thay đổi lắm sau cơn bạo bệnh khiến ông bị mù nhiều năm về trước, trừ việc giờ đây ông dựa vào cánh tay Maddy khi đi dạo mỗi ngày hoặc tới các buổi họp hằng tháng của Hiệp hội Giải tích và sử dụng các khối gỗ khắc cùng việc đọc cho người khác chép thay vì dùng cây bút của mình.
“Hôm nay con lại ghé qua nhà Công tước xem tình hình phần vi phân chứ?” ông hỏi.
Yên tâm vì Geraldine đã rời đi, Maddy nhăn mặt. “Vâng, thưa cha,” nàng đáp, cố giữ không cho vẻ bất mãn len vào giọng nói. “Con sẽ ghé qua nhà Công tước lần nữa.”
Điều đầu tiên mà Christian nghĩ tới khi tỉnh giấc là bài tích phân chưa giải xong. Gã tung chăn, xua Cass và Devil ra khỏi giường rồi ra sức vẩy tay cho hết cảm giác tê nhói vì đã gối đầu lên tay cả đêm. Lũ chó đứng chực ở cửa phòng, rên rỉ, gã bèn mở cửa cho chúng chạy ra ngoài. Cơn tê buốt khó chịu nơi ngón tay tan dần, gã co duỗi bàn tay trong khi rót sô cô la vào tách rồi mặc nguyên áo ngủ ngồi xuống, lật nhanh qua trang mã hóa của Timms và cả trang của gã.
Rất dễ nhận ra sự khác biệt: chữ của Timms nhỏ và tao nhã, chỉ bằng một phần ba những nét nguệch ngoạc ngược đời của Christian.
Ngay từ ngày đầu tiên đến trường, gã đã chống đối lại quy tắc viết bằng tay phải và quyết sử dụng tay trái, lì lợm chịu đựng những trận đòn thường xuyên giáng xuống lòng bàn tay, nhưng dù sao thì gã vẫn thấy xấu hổ khi phải viết trước mặt ai đó. Chữ của Timms sáng nay có vẻ quá nhỏ, nhỏ đến khó đọc, chúng lăn tăn trên mặt giấy khiến Christian đau đầu khi cố căng mắt nhìn.
Rõ ràng là vì thứ rượu brandy quái quỷ nào đó nốc tối qua mà giờ gã hơi khó ở. Gã lấy cây bút lông ngỗng đã được viên thư ký gọt tỉa đặc biệt cho phù hợp với lối cầm bút trái khoáy khó coi của gã và bắt đầu viết, bỏ qua những gì đã viết trước đó. Không gì dễ dàng hơn đắm chìm hoàn toàn trong thế giới tươi tắn, điềm mặc của những hàm số và đường hyperbol. Những nét bút trên giấy có thể trượt đi và run rẩy, nhưng các phương trình trong đầu gã thì như một khúc nhạc ngân mãi. Gã chớp mắt, nhăn mặt vì cơn đau dường như vừa nhói lên quanh mắt phải, tiếp tục viết.
Đúng lúc tính xong bài tích phân cuối cùng và đang định gọi Calvin mang bữa sáng tới thì gã chợt có cảm giác như vừa thức dậy từ một cơn hôn mê, gã bèn nhìn lên, nhận ra phòng ngủ của chính mình với những chiếc cột theo phong cách Palladio hai bên đầu giường, những diềm trang trí và tấm ốp chân tường bằng thạch cao, giấy dán tường có họa tiết xanh lơ do một quý bà nào đó mà lúc này gã không sao nhớ ra tên chọn lựa. Dầu vậy, cái ý nghĩ về đàn bà gợi cho gã liên tưởng êm ái đến Eydie, gã bèn sai Calvin gửi cho ả một nhành phong lan trước bữa trà.
“Vâng, thưa Đức ông.” Tay quản gia khẽ cúi đầu. “Ngài Durham và Đại tá Fane đang ở dưới nhà. Họ đã đợi diện kiến ngài khá lâu. Liệu tôi có cần báo với họ rằng chiều nay Đức ông không có nhà không ạ?”
“Trông tôi giống không có nhà à?” Gã duỗi chân và ngả lưng vào ghế, vừa bắt tréo cổ chân vừa liếc đồng hồ. “Chúa ơi, một rưỡi rồi. Họ đợi đó bao lâu rồi? Bảo họ lên đây ngay. Lên ngay.”
Gã chả buồn chỉnh trang lại để gặp Durham và Fane, kiếm đâu ra hai người bạn thân thiết và dễ tính hơn cơ chứ. Day đầu cho bớt cảm giác nặng trịch nhói buốt dai dẳng, gã cứ thế ngả người trên ghế, nhắm nghiền mắt một lát.
“Quỷ thần ơi, chúng ta có gì ở đây thế này? Lại gà bới à?” Giọng nói biếng nhác của Durham thoáng ngạc nhiên. “Vào thời điểm như thế này nữa chứ. Cậu là băng đá đấy hả?”
“Ồ, cậu biết rửa tội thật chứ?” Christian hé một bên mắt.
“Tôi có thể học. Bất cứ việc gì vì cậu, Shev ạ.” Giọng điệu và lối ăn mặc của Durham vẫn chịu ảnh hưởng của Brummell[1] mười một năm sau khi anh chàng Beau kia chuồn sang Pháp để trốn đám chủ nợ, nhưng mái tóc vàng rực và cử chỉ quyết đoán lại như một đối âm bóng loáng với điệu bộ thiếu sinh khí ấy. Bộ cánh đen tuyền là nhượng bộ duy nhất của anh ta cho danh hiệu Đức Cha, và Christian là người bảo hộ duy nhất của anh ta trong việc này - Công tước Jervaulx nắm giữ, cùng với hai mươi chín suất chỉ định giáo sĩ khác, quyền tiến cử cho mối sinh cơ ở St. Matthews-upon-Glade, một nguồn thu dồi dào mà Christian thấy phù hợp để tặng cho bạn mình. Một ân sủng đặc biệt hào phóng khi xét đến thiếu hụt của Durham về các phẩm chất cần thiết để làm nên một linh mục.
[1] Beau Brummell (1778-1840), một biểu tượng của thời trang và giới thượng lưu thế kỷ XIX.
Fane và lũ chó theo sau Durham, Devil lách giữa đôi ủng của Fane khi anh chàng cận vệ bước vào, choáng lộn giữa đám ren vàng và quân phục đỏ chói, ngón tay quay quay chiếc mũ chóp cao. Anh ta ném mũ về phía Christian.
“Sutherland nhờ chuyển cho cậu này.”
Christian đón lấy chiếc mũ. Gã đẩy chân Devil ra khỏi đùi. “Cậu nói chuyện quái gì thế? Sutherland?”
“Chúng bảo cậu bỏ lại nó ở thềm nhà y đêm qua.”
“Ai bảo?”
“Ồ, cậu nghĩ còn ai vào đây nữa?” Fane cáu kỉnh ngồi phịch xuống ghế. “Mấy tên tùy tùng chết tiệt của y, bọn đó bảo đấy.”
Christian bật cười dù đang đau đầu muốn chết. “Chậc, y trở lại thành phố rồi à? Cho mời tôi ngay kia đấy?”
“Cậu rước họa vào thân rồi, Shev ạ, không ai nghĩ chuyện này buồn cười đâu,” Durham cất lời. “Sutherland là một tay súng xuất quỷ nhập thần đấy.”
Fane vuốt ve đầu Cassie rồi nhặt một sợi lông chó đen khỏi áo choàng đỏ của mình. “Y muốn đấu luôn sáng mai. Tất nhiên là còn tùy vào cậu. Chúng tôi nghĩ là súng nhưng trong trường hợp đối thủ là Sutherland thì cậu cũng nên cân nhắc thêm cả kiếm.”
Christian lại nhắm rồi mở mắt. Cơn đau đầu đang nhấn chìm gã, gã thậm chí không thể tư duy cho ra hồn.
“Đen quá, chạm trán ngay tại sảnh nhà y như thế,” Fane sầm sì nói thêm. “Tôi thề y không hay tí gì về vụ cậu và ả Sutherland. Chỉ là đen như chó, vậy thôi. Cậu tưởng là thằng khốn ngu ngốc đó định giữ mồm giữ miệng à? Y định sẽ ra sao nếu giết được cậu? Đi đày tới chỗ hẻo lánh nào đó hoặc có khi bị treo cổ cũng nên. Lạy chúa, Shev, chính tay tôi sẽ bóp chết con chuột đó nếu y dám giết cậu.”
Christian khó nhọc cau mày với Fane. Gã nghĩ đây hẳn là một trò đùa tinh vi nào đó mà giờ gã không có tâm trạng để đùa. Nhưng không ai trong hai người có vẻ cười cợt và nom Fane rõ xấu xí, hàm bạnh ra.
“Người hầu của Sutherland ghé qua chỗ các cậu sáng nay à?” Christian ngập ngừng hỏi.
“Thiệp tới lúc tám giờ.” Durham khoát tay. “Chín giờ chúng đã ở dưới chân cầu thang nhà tôi ở Albany. Y tức sùi mép rồi, Jervaulx. Y muốn máu đổ.”
“Chúng nói... tôi ở trong nhà y?”
“Không phải chắc?”
Christian trừng trừng nhìn ngón chân. Giờ nghĩ lại, gã không thể nhớ được gì nhiều về tối qua.
“Lạy Chúa. Chắc tôi phải say bí tỉ.”
Durham thở phì ra. “Quỷ thần ơi, Jervaulx, cậu nói là cậu không nhớ gì sao?”
Christian khẽ lắc đầu. Gã không có cảm giác đêm qua mình nốc rượu.
Gã không nhớ lúc mình bắt đầu uống. Chỉ là cơn đau đầu này đang hành hạ gã, và bàn tay gã... gã chỉ cảm thấy rất lạ.
“Mẹ kiếp,” Durham vừa chửi thề vừa ngồi xuống ghế. “Đúng là rối như tơ vò.”
“Không sao.” Christian ấn ngón tay lên sống mũi. “Y muốn ngày mai hả? Mai thì sớm quá.”
“Vậy bao giờ?”
“Tôi phải trả bài vào ngày mai, buổi tối. Chuyện kia phải đợi sáng thứ Tư.”
“Trả bài?” Fane hỏi lại.
“Bài toán.”
Viên đại tá chỉ trân trối nhìn gã.
“Những trang viết, Fane,” Christian kiên nhẫn giải thích. “Có chữ ở trên đó để chuyển tải một thông điệp quan trọng. Trong quân đội cậu có bao giờ đọc không đấy?”
“Thi thoảng,” Fane đáp.
“Shev là một Isaac Newton chính hiệu, cậu biết đấy.” Durham ngả người ra sau và bắt chân chữ ngũ.
“Dù nếu thoạt nhìn cậu ta thì cậu sẽ chẳng bao giờ ngờ được, phải không? Trông cậu như ma nhập ấy, Jervaulx.”
“Tôi cũng đang thấy thế đây,” Christian đáp. Gã vuốt ve cổ họng Devil bằng tay trái và thở dài. “Quỷ tha ma bắt. Thế mà tôi còn vừa gửi cho ả một cành phong lan chết tiệt.”
Tòa dinh thự mới xây trắng muốt, quý phái ở quảng trường Belgrave là một sự lăng mạ với Maddy. Mọi thứ liên quan đến Công tước Jervaulx đều là sự lăng mạ với nàng. Được sinh ra và nuôi nấng như một thành viên của Ái hữu Hội, nàng nghĩ mình phải có bổn phận quan ngại cho tình trạng được ân sủng của gã, việc phí hoài đời mình trong những cuộc khiêu vũ, bài bạc và bao thú vui khác mà gã đang đắm chìm, nhưng, nói một cách thành thực, Linh quang Nội tại của nàng không nhọc công lo lắng lắm cho linh hồn gã. Nói trắng ra, nàng cảm thấy một sự bài xích quá-đỗi-trần-tục với người đàn ông này. Bình thường, nàng sẽ chẳng bao giờ mảy may thèm phí một thoáng suy tư cho gã, thực ra, Maddy chưa từng nghe đến tên của Công tước Jervaulx cho tới khi gã, với những lý do trái thói của riêng mình, bắt đầu viết thư gửi cho nhật báo của Hiệp hội Tích phân London và bởi vậy chiếm một vị trí thật lớn dù vô hình trong ngôi nhà nhỏ của gia đình Timms tại Chelsea.
Nàng luôn là người đọc từng chữ trên tờ nhật báo cho cha nghe, và tất nhiên chính nàng là người chép ra giấy các phúc đáp của cha cho những bức thư được đăng tải của Công tước truy vấn chuyên khảo của ông về cách tính phương trình bậc năm. Đó là hồi tháng Một. Giờ đã gần tháng Sáu, những bồn hoa trên bậu cửa sổ đã bung nở hoa đậu ngọt và những đóa tulip nở muộn tạo thành một vệt đỏ tươi nổi bật trên nền tường nhạt màu và Maddy từ lâu đã trở thành một vị khách thường xuyên tại quảng trường Belgrave.
Vậy nhưng nàng chưa từng gặp Jervaulx. Nàng chưa một lần thấy tận mặt gã. Công tước tất nhiên không thèm đợi một nữ tín đồ phái Giáo hữu mộc mạc, khiêm nhường như nàng mà cũng chẳng buồn đích thân tham dự các buổi họp của Hiệp hội Giải tích, gã có nhiều phương cách quý tộc và đáng ngờ hơn để tiêu khiển. Không - Archimedea Timms xuất hiện trước ngưỡng cửa dinh thự cao quý của gã với những kết quả nghiên cứu mới nhất của cha được ghi lại bằng nét chữ chỉn chu của nàng, và đón nàng là tay quản gia Calvin. Anh ta đưa nàng vào một sảnh nhỏ nhô ra từ phòng ăn sáng, mời nàng sô cô la nóng, mang đi những đề xuất cẩn trọng của cha nàng và để nàng ngồi đó, đôi khi tới tận ba tiếng rưỡi, chờ xem vị quản gia có quay lại với một mẩu giấy nhắn và vài tờ giấy phủ kín những nhát bút phóng túng xa xỉ, những dòng phương trình được viết như thể chữ, con số và các đường cong là tác phẩm nghệ thuật trừu tượng hơn là nỗ lực toán học không.
Nhưng đa số trường hợp, Calvin sẽ quay lại với lời hứa của công tước rằng mai sẽ xong. Và khi nàng ghé qua vào hôm sau, lời hứa được chuyển cho ngày kế tiếp, rồi kế tiếp nữa, cho tới khi nàng mất hết kiên nhẫn với gã. Trên tất cả là niềm hứng khởi âm thầm nhưng ngày một lớn của cha nàng về thứ mà ông và Jervaulx đang cùng hướng tới. Toán học là cả đời cha, là điều kiện không thể bác bỏ trong định lý về mục đích tồn tại của ông - không phải vì danh tiếng cá nhân mà thuần túy bởi tình yêu khoa học. ông coi Công tước là một phép mầu, một phước lành kỳ diệu ban xuống đời mình cũng như môn Hình học và nhân loại nói chung, và mong mỏi những cuộc đàm đạo thất thường cùng gã với lòng nhẫn nại vô hạn.
Thực lòng, Maddy e rằng nàng có hơi ghen tị. Cái kiểu gương mặt cha bừng sáng khi nàng cuối cùng cũng quay về với một trong những tập hợp phương trình và tiên đề mới của Jervaulx, vẻ sửng sốt của cha rồi đến những cái gật đầu hân hoan sâu thẳm khi nàng đọc cho ông và ông khám phá một số sáng kiến độc đáo, một số cách tính đặc biệt tinh vi... ừm, bực bội với niềm hạnh phúc ấy của ông nào có được gì, chỉ bởi với nàng chúng chẳng là gì ngoài một dãy bất tận những biểu tượng, như một thứ ngoại ngữ mà người ta có thể đánh vần và đọc to lên nhưng không hiểu được ý nghĩa. Có những người sinh ra đơn giản là để dành cho nó, còn Maddy, mặc cho cái hy vọng tinh tế mà cha nàng đã bày tỏ khi đặt tên nàng theo tên của Archimedes, này không nằm trong số đó.
Tuy nhiên, công tước Jervaulx thì lại nằm trong số đó.
Gã còn phóng đãng, liều lĩnh và ngông cuồng, một kẻ nịnh đầm, một tên cờ bạc, một tay sát gái, một nhà bảo trợ của những nghệ thuật trần tục - đám họa sĩ, nhạc sĩ và tiểu thuyết gia - thường được nhắc tới với biệt danh Đông Gioăng trong các vụ bê bối trên giường, địa hạt mà gã cùng đủ loại thành tích chói lọi rất năng xuất hiện.
Nàng tự đặt cho mình nhiệm vụ tìm hiểu về gã. Nói toạc móng heo, gã là một kẻ đồi bại trác táng.
Nếu người đàn ông này có là một tay chăn bò thì với cha cũng vậy, tài năng là tất cả những gì ông quan tâm. Nhưng Jervaulx là công tước, một thực tế mà Maddy được nhắc nhở thường xuyên hơn cha - nói chính xác là mỗi lần nàng mòn mỏi ngồi đợi những cơn cảm hứng vương giả của gã trong cái sảnh nhỏ nối với phòng ăn sáng. Và bây giờ dù tháng trước là sẽ cùng phối hợp thực hiện bài thuyết trình với cha nàng và thậm chí còn hạ mình đề nghị đích thân trình bày trong buổi họp hằng tháng của Hiệp hội Giải tích, Jervaulx rõ ràng đã quên phéng tất cả và thậm chí chẳng thèm hoàn thành bước cuối quyết định của các phép tính.
Ít nhất nàng cũng hy vọng gã quên thật vì nàng có một nỗi lo sợ tủn mủn rằng gã sẽ chơi một trò đùa khủng khiếp với cha. Cơn ác mộng tồi tệ nhất của nàng là Jervaulx sẽ đến Hiệp hội Giải tích với mấy tên bạn kinh dị của gã, biết đâu lại say túy lúy, mang theo đám đàn bà nhơ nhuốc, biến cha nàng và tất cả thành viên trong Hội thành tâm điểm chế nhạo của người đời.
Nàng không có căn cứ thực tế nào để ngờ rằng gã sẽ làm vậy nhưng chí ít thì cha nàng cũng sẽ thất vọng cay đắng và xấu hổ trước toàn bộ các đồng nghiệp bởi sự vắng mặt của Công tước, tất cả chỉ vì một gã quý tộc quá lười biếng không thể sống cho đúng giao ước của mình với bất cứ thứ gì ngoài sự trụy lạc. Với Jervaulx, đây không hơn một trò tiêu khiển. Với cha nàng, đây chính là máu thịt.
Nàng hùng dũng tiến bước lên những bậc thềm bên dưới vòm cổng lớn của tòa dinh thự màu trắng, quyết tâm gửi một lời nhắn riêng của mình bên cạnh những yêu cầu lịch thiệp và rụt rè của cha. Dù chưa từng khám phá ra trong tâm hồn mình cái dũng khí đứng lên cát tiếng nói giữa không khí lặng im của buổi Suy niệm, nàng thực lòng chắc chắn rằng ít nhất việc gã là công tước cũng không khiến nàng run sợ. Nàng chẳng hề e ngại nói thẳng vào mặt gã - bản thân đó cũng là một dấu hiệu, nàng linh cảm vậy, rằng chính Chúa đang thúc đẩy nàng. Dựa trên sự bình đẳng của các linh hồn trước Chúa, nàng cảm thấy nếu bình tĩnh chỉ ra một cách thuyết phục bất cứ điều gì có thể phơi bày tội lỗi của Công tước ngay trước mặt gã thì cũng chỉ tốt cho gã mà thôi.
Nhưng Calvin mỉm cười khi dẫn nàng vào và cầm một bao da phẳng trên chiếc bàn kê trong tiền sảnh lên. Anh ta đưa nó cho nàng. “Xin được gửi tới ông Timms, kính nhờ cô Archimedea Timms chuyển giùm, cùng với lời thăm hỏi của Đức ông,” anh ta nói. “Công tước đã lệnh cho tôi báo lại với ông Timms rằng Đức ông sẽ tới tham dự buổi họp của Hiệp hội Giải tích vào tối mai cùng với ngài Charles Milner và rất trông đợi bài thuyết trình sắp tới.”
Maddy đón lấy bao da. “ồ,” nàng nói. “Làm xong rồi cơ đấy.”
Calvin không có vẻ gì chú ý tới sự ngạc nhiên của nàng mà khẽ nghiêng đầu về phía phòng ăn sáng. “Cô có muốn dùng sô cô la không, thưa cô?”
“Sô cô la?” Maddy cố tập trung những suy nghĩ đang tán loạn trong đầu. “Không, thực ra tôi sẽ không nán lại. Tôi phải chuyển thứ này cho cha tôi ngay.”
“Xin theo ý cô.”
Việc tên công tước lơ đãng không ngờ bỗng chú tâm tới lời hứa khiến Maddy bị choáng và ở phương diện nào đó phật ý nhiều hơn là hài lòng. Tên đàn ông đáng ghét, đẩy mọi người vào trạng thái đợi dài cổ lộn tùng phèo rồi cho rằng chỉ cần sóng vai cùng Chủ tịch Milner đến dự họp và hoàn thành các phép toán vào phút chót là sẽ có thể vãn hồi trật tự.
“Tôi nói thẳng với anh, Ái hữu,” nàng lên tiếng bằng thứ giọng cứng rắn đã chuẩn bị để ném vào chính Công tước. “Tôi hy vọng rằng Jervaulx chuẩn bị đầy đủ cho bài diễn thuyết của mình. Tôi e rằng không còn đủ thời gian cho cha tôi giúp gì nữa đâu.”
Calvin lễ phép nhìn nàng. “Đức ông không nhắc tới việc chờ đợi lời khuyên nào của ông Timms.” Anh ta nhấn mạnh vào tôn xưng như vẫn thường làm và Maddy hiểu rõ rằng nó ám chỉ sự không đồng tình của viên quản gia với kiểu gọi Jervaulx bằng danh xưng trong tước hiệu thế tục của gã như vậy. Maddy thì chẳng thèm bận tâm. Nàng dám gọi thẳng họ của gã như một tín đồ phái Giáo hữu giản dị sẽ gọi bất kỳ ai nếu vô tình biết họ của gã.
Nàng đứng lặng một khắc, dưới chiếc váy dài, mũi chân nàng khẽ gõ nhanh. “Tôi có thể nói chuyện với anh ta không?”
“Tôi rất tiếc phải trả lời rằng Đức ông hiện không có nhà.”
Mũi chân Maddy gõ mạnh hơn. “Tôi hiểu. Thật không may. Nhờ anh chuyển lời cảm ơn của cha tôi tới anh ta.”
Nàng kẹp bao da vào dưới nách rồi bước xuống bậc cấp.
Christian nằm trên giường, hai mắt đắp một miếng vải đẫm dầu long não bốc mùi lợm giọng. Gã càu nhàu khi nghe tiếng tay Calvin nện vào cửa.
“Cô Archimedea Timms ghé qua, thưa Đức ông. Cô ta đã mang tài liệu đi rồi.”
“Tốt.”
Tiếp đó là một khoảng im lặng. “Chưa cần đến mười lăm phút thầy thuốc sẽ có mặt,” Calvin đề nghị, “nếu ngài đồng ý cho tôi đi gọi, thưa Đức ông.”
“Ta không cần tên lang băm chết tiệt nào cả. Một hai phút nữa sẽ hết.” Christian nuốt nước bọt.
Tay quản gia lầm bầm nói vâng. Cánh cửa đóng cạch lại sau lưng anh ta. Christian kéo miếng vải ướt nhẹp khỏi mặt ném xuống sàn. Gã án tay lên mắt và ngật đầu ra sau, tự hỏi không biết mình có ngỏm vì cơn đau đầu chết tiệt này trước khi Sutherland có cơ hội giết gã không.