Tạ Dung Dữ mở chiếc hộp gỗ ở trên bàn ra, bên trong đựng vài miếng gì đó màu trắng.
“Hải phiêu tiêu*.” Tạ Dung Dữ nói, “Chuyện trị cầm máu hoặc chữa ngoại thương. Dù không phải dược liệu gì quý giá nhưng thứ này chỉ ở ngoài biển, thành thử Diệp Tú nhi khó mà tìm mua được ở Lăng Xuyên.”
(*Hải phiêu tiêu là nang của nhiều loại cá mực, thường dùng nhất là nang mực váng. Phiêu tiêu là tổ con bọ ngựa, vị thuốc này giống tổ bọ ngựa nhưng ở ngoài biển, nên gọi là Hải phiêu tiêu.)
Tuy Thanh Duy chưa thấy Hải phiêu tiêu bao giờ nhưng đã từng nghe qua.
Đúng như Tạ Dung Dữ nói, vị thuốc này dùng để chữa ngoại thương cầm máu, cả Diệp Tú nhi lẫn con ma xám đều có vẻ khỏe mạnh, không cần thiết phải dùng, Diệp lão bá bị cụt chân, cũng không cần dùng để pha chế thuốc, rốt cuộc bọn họ trăm phương nghìn kế tìm Hải phiêu tiêu để làm gì?
Lẽ nào có người khác cần đến nó?
Thanh Duy hỏi Tạ Dung Dữ: “Sao ngài biết Tú nhi muốn tìm Hải phiêu tiêu?”
Tạ Dung Dữ nói: “Dân Thượng Khê cũng chỉ lui tới vài ba tiệm thuốc đấy thôi, phái người đi thăm dò là biết.”
Thanh Duy gật đầu, cầm lấy hộp thuốc, “Tiểu a đầu kia rất lanh trí, để ta tìm cách dụ con ma xám ra!” Nàng cất hộp thuốc vào trong áo, bụng nghĩ cần phải nhanh chóng bắt bằng được con ma xám đấy, thế là hai ba bước đi tới trước cửa sổ, đẩy cửa ra toan nhảy xuống.
Nghe y nói vậy, Thanh Duy mới đưa mắt nhìn xuống bàn chân đang đặt trên khung cửa, lúc nãy nàng dậy vội quá, cả vớ còn quên mang chứ nói gì đến hài. Nàng lúng túng ngẩn người, phản ứng đầu tiên là quay đầu nhìn Tạ Dung Dữ, thấy đôi mắt thấp thoáng ý cười của y vừa nhìn lướt qua chân nàng, đầu óc Thanh Duy nhất thời trống rỗng.
Nào phải ai xa lạ, hồi trước còn từng giả vợ chồng kia mà, không phải chỉ bị nhìn chân thôi sao, có gì đâu chứ?
Nàng chưa bao giờ để ý đến điều này cả.
Nhưng càng nghĩ như vậy thì trong lòng nàng càng khó chịu, cảm giác hốt hoảng trước lúc ngủ lại ấp đến, xua cách mấy cũng không biến mất. Thanh Duy không hiểu rốt cuộc chính mình bị làm sao nữa, nàng mím môi, vội vã quay vào phòng đi vớ xỏ hài, đúng lúc này lại nghe Tạ Dung Dữ nói: “Ta hộ tống nàng về nhé?”
Thanh Duy lắc đầu nguầy nguậy: “Không cần đâu, trang viên kia nằm dưới chân núi thành tây, dễ đi lắm, tới lúc đó ta dụ Tú nhi và Diệp lão bá ra mặt, các ngài chỉ cần phối hợp là được.”
Nói đoạn, nàng thôi nhìn Tạ Dung Dữ, cơ thể linh hoạt tựa chú chim, nhẹ nhàng nhảy ra từ cửa sổ rồi lập tức biến mất.
***
Về đến trang viên là cuối giờ Tuất, nha sai canh gác trước cửa đã rút lui.
Thanh Duy không đi cửa chính mà leo tường ở cánh đông để vào, chưa lại gần nhà chính đã nghe thấy tiếng chuyện trò bên trong, hình như thím Ngô đang thấp giọng khuyên nhủ Dư Hạm.
Một lúc sau, cái giọng lanh lảnh của Dư Hạm vọng ra, “… Mua son phấn? Mua son phấn là có thể lập công chuộc tội hả? Vậy tối qua ta cho nó nghỉ ngơi hẳn một đêm rồi đấy! Biểu tỉ nó ra ngoài tìm nó, tới nay vẫn chưa về, phạt nó quỳ trong phòng chứa củi một ngày thì đã làm sao? Nó chết đói được chắc!”
Thím Ngô bảo: “Giang biểu tỉ kia trông có vẻ là người có bản lĩnh, không phải Tú nhi từng nói cô ấy đào hôn chạy trốn sao, hình như phu gia còn quen biết quan phủ. Cô ấy đi cả ngày không về, có khi nào là trốn quan phủ không? Bên ngoài còn đang phong tỏa, có lẽ đợi tới tối là cô ấy sẽ về thôi.”
“Cô ta có về hay không không phải chuyện của ta, có phải là biểu tỉ của ta đâu!” Dư Hạm lạnh lùng nói, “Nhưng ngộ nhỡ xảy ra án mạng, ta sẽ là người đầu tiên đuổi con a đầu chết tiệt Tú nhi ra ngoài, đúng là đen đủi!”
Thanh Duy nghe hai người họ nói chuyện, biết tối qua Diệp Tú nhi về đến nhà thì bị nhốt ở phòng chứa củi, trong lòng thở phào một hơi.
Nàng không kinh động đến Dư Hạm, đầu tiên là về phòng cất Hải phiêu tiêu, ngồi đợi một lúc, tới khi Dư Hạm được thím Ngô khuyên can hạ hỏa, đến hậu viện gỡ lệnh cấm túc cho Diệp Tú nhi thì nàng mới đẩy cửa đi ra ngoài.
Cửa phòng chứa củi mở ra, Diệp Tú nhi lập tức lồm cồm bò dậy từ đống cỏ, tiến tới kéo tay áo Dư Hạm: “Phu nhân, nô tì biết sai rồi, tối qua nô tì không nên tự tiện rời phủ, cũng do nô tì sợ phu nhân không có son phấn trang điểm, lần sau nô tì đi Đông An, dù dốc hết bạc cũng phải mua bằng được son bách hợp ở tiệm về.”
Miệng nàng ta như có thoa mật, từng câu từng chữ khảm vào trong tâm Dư Hạm, Dư Hạm vốn thích nàng ta, giờ nghe nàng ta dỗ dành thì cũng nguôi ngoai phần nào, đưa ngón tay xỉa vào trán nàng ta: “Con a đầu chết tiệt, phu nhân ta nghèo lắm hay sao mà cần mấy đồng nhét kẽ răng của em!”
Đương lúc nói chuyện, vừa xoay người lại thì đụng phải Thanh Duy từ trong nhà đi tới, hồn vía bay thẳng lên mây.
Dư Hạm vuốt ngực, khẽ hé môi: “Cô, cô về lúc nào thế? Cô không bị ma bắt đi à?”
Thanh Duy lắc đầu, nói thật: “Ta cũng mới về thôi, tưởng quân lính vẫn đang canh gác nên trèo tường vào.” Ánh mắt nàng dừng lại ở Tú nhi, giả vờ bất ngờ, “Muội về khi nào vậy? Tối qua ta ra ngoài tìm muội cả đêm.”
“Nó ấy hả.” Dư Hạm hừ lạnh, lắc mông đi về nhà chính, “Tối qua cô đi chưa được hai canh giờ thì nó bị quan sai dẫn về, bị người ta bắt được trên đường đi mua son phấn.”
Gió xuân buổi hoàng hôn hây hây thổi nhẹ vô cùng dễ chịu, nhưng có lẽ từ ngày con ma mò đến trang viên, chỉ cần trời vừa trở tối là Dư Hạm ghét phải ở một mình trong viện, gọi tất cả gia nhân trong trang viên đến nhà chính góp đủ nhân khí.
“Mà cô đấy, cô không tìm thấy người sao không biết đường về, mọi người còn tưởng cô…” Vừa tới nhà chính, Dư Hạm ngồi xuống, phất khăn tay ra hiệu thím Ngô khép cửa lại, không nói nốt nửa câu sau – còn tưởng cô chết ngoài kia rồi.
Thanh Duy đáp: “Ta đi trốn.”
“Ta đào hôn chạy trốn mà, ngoài kia nhiều quân lính quá, ta không dám lộ mặt nên đành trốn trong miếu Thành hoàng một đêm.” Thanh Duy nói, “Nhưng ở trong miếu Thành hoàng, ta lại gặp một chuyện lạ.”
Hai chữ “chuyện lạ” vừa thốt ra, người trong nhà đồng loạt nín thở, bây giờ ở Thượng Khê có rất nhiều chuyện lạ, mười chuyện thì hết tám liên quan tới yêu ma quỷ quái.
Quả nhiên Thanh Duy nói: “Ta lại gặp con ma xám kia.”
“Cô gặp ma trong miếu?” Dư Hạm ngạc nhiên, cảm thấy khó tin, “Sao có thể, đạo sĩ miếu Thành hoàng là trấn sơn bắt ma, ma quỷ đi chỗ nào chứ làm gì có chuyện đến miếu Thành hoàng.”
“Nên ta mới bảo là lạ. Nhưng ta phát hiện,” Thanh Duy điềm nhiên nhìn lướt qua Diệp Tú nhi, “Con ma xám này không phải ma, mà là người.”
“Tối qua ta vào thành tìm Tú nhi, nghe quân lính hô hoán ‘bắt ma’ nên mới vào miếu Thành hoàng trốn. Kể ra cũng kỳ, vốn dĩ quân lính giăng bẫy bắt ma ở tiệm thuốc, nhưng bọn họ thất thủ, để con ma kia sổng mất mà chạy vào miếu Thành hoàng. Thượng Khê cũng chỉ lớn có chừng ấy, quân lính tìm hết mà không thấy thì dĩ nhiên sẽ kéo đến miếu Thành hoàng.
Nhờ thế ta mới phát hiện ma xám là người, hắn bị quân lính phát hiện, bị thương trong lúc chạy trốn, chảy rất nhiều máu, mà ma sao lại chảy máu? Chỉ có người mới chảy máu.”
Ban đầu khi Diệp Tú nhi nghe Thanh Duy kể về sự việc tối qua, vẻ mặt vẫn dửng dưng như không, nhưng tới lúc nghe nói con ma xám bị thương thì hai mắt nàng ta đông cứng lại, “Hắn bị thương? Thế… Quan phủ có bắt được hắn không?”
Thanh Duy lắc đầu: “Không bắt được, có vẻ hắn còn rất trẻ, chạy trốn nhanh lắm, quan phủ không đuổi kịp. Nhưng bây giờ đã bị bắt chưa thì ta không rõ.”
Tối qua lúc vào thành, Diệp Tú nhi chỉ kịp thắt túi thơm có mùi hương lạ lên ngọn cây, chưa kịp đợi con ma xám đến đã bị quân lính phát hiện. Sau đó nàng ta bị dẫn về phủ, lại bị Dư Hạm nhốt trong phòng chứa củi một đêm, mọi người trong phủ bao gồm cả Diệp lão bá lại không ra ngoài nửa bước, nên không một ai biết gì về tình hình bên ngoài, con ma đã bị bắt chưa, có bị thương không, vết thương nặng hay nhẹ, tất cả đều do một mình Thanh Duy nói.
Thanh Duy biết Tú nhi lanh trí, nàng nói gì chưa chắc nàng ta đã tin, nhưng lời tiếp theo lại chưa chắc.
“Thực ra người của quan phủ cũng chẳng định bắt ma đâu. Tối qua lúc trốn trong miếu Thành hoàng, ta nghe thấy một quan gia nói, nếu thật là ma thì không cần bắt, cứ để nó đi, tự có Diêm vương quản, sở dĩ bây giờ phong tỏa núi là do quan phủ nghi ngờ con ma này là dư đảng của sơn tặc núi Trúc Cố năm xưa.”
Dư Hạm nghe thế thì giật thót, vội vã bịt miệng nàng lại, “Cô chớ nói lung tung.”
“Ta không nói lung tung.” Thanh Duy nói, “Tiểu phu nhân biết mà, chuyện ở Thượng Khê liên quan gì đến người vùng khác như ta, sơn tặc núi Trúc Cố năm xưa chết thảm, ta không biết gì mà cả gan nói lung tung về họ, lẽ nào không biết họa từ miệng mà ra? Chẳng qua ta nể tình tiểu phu nhân đã thu nhận ta, mang ơn cảm kích nên mới báo cho tiểu phu nhân tin tức mình nghe được. Nếu dòng máu trên núi Trúc Cố chưa chảy hết, quan phủ phong tỏa núi bắt ma, ngày nào chưa bắt được tất sẽ không bỏ qua, ma bị thương, quan phủ nhân đó truy kích, chắc chắn sẽ có hành động mạnh. Tốt nhất mấy ngày tới chúng ta chớ rời khỏi trang viên, tránh rước họa vào thân.”
“Đúng đúng đúng, cô nói chí phải.” Nghe Thanh Duy nói, Dư Hạm không nghi ngờ gì nữa, “Chẳng những không được rời trang viên mà tối đến phải chia người canh gác, không cần biết hắn là ma hay người, đợi việc này qua đã rồi tính tiếp!”
Chỉ nói chuyện một lúc mà trời đã tối sầm, nhắc đến sơn tặc núi Trúc Cố, mọi người chẳng ai thiết tha tán gẫu chuyện trò nữa, ăn tối xong thì cũng đã chùng da mắt, ai về phòng nấy đi ngủ. Dư Hạm bị lời của Thanh Duy dọa sợ, lo ban đêm không ngủ được nên kéo Tú nhi tới ở với mình. Còn Thanh Duy, tuy ban ngày đã ngủ đủ giấc nhưng không xung phong nhận việc gác đêm, nàng về phòng nhắm mắt dưỡng thần, đợi nửa canh giờ trôi qua, quả nhiên trong sân có tiếng bước chân.
Tiếng bước chân rất nhẹ, dẫm lên bùn cỏ trong sân, nếu không biết sẽ ngỡ là tiếng ếch nhảy hoặc côn trùng kêu, nhưng âm thanh đó nào qua được đôi tai của Thanh Duy.
Thanh Duy khẽ khàng đẩy cửa ra, đi vòng tới viện hoang, quả nhiên Diệp Tú nhi lại chui ra ngoài qua lỗ chó sau vườn.
Thanh Duy không lập tức đuổi theo, ngoài lỗ chó là đường núi, chỉ có một con đường dù lên hay xuống, rất dễ lần theo dấu vết, hơn nữa Tú nhi đi cũng không nhanh bằng Thanh Duy, chốc nữa đuổi theo vẫn chưa muộn.
Sau khi chắc chắn Tú nhi đã lẻn ra khỏi trang viên, Thanh Duy vòng về phòng, cầm lấy Hải phiêu tiêu mà Tạ Dung Dữ gói cho mình, gõ cửa phòng Diệp lão bá nói: “Diệp bá, tôi gây họa rồi, hình như tôi cầm nhầm đồ của quan phủ rồi, xin Diệp bá giúp tôi.”