Thê Tử Của Bề Tôi Trung Thành

Chương 83: Nhận nhiệm vụ lúc lâm nguy



Sau khi các phụ tá lần lượt giải tán, sắc trời đã tối đen, trong phủ lục tục lên đèn.

Án Ly đang định xin lui, cửa thư phòng bỗng nhiên bị người ta đẩy ra, xuất hiện trước mắt ông là sủng thiếp Ánh Liễu của Tề vương.

Ánh Liễu không ngờ trong phòng còn có người ngoài, vội vàng phúc thân, bên kia Tề vương cũng đã nhìn thấy nàng, hắn nói: “Sao nàng lại tới đây? Có chuyện gì sao?”

Ánh Liễu vội nói: “Không có chuyện gì to tát, thiếp chỉ muốn hỏi điện hạ là khi nào có thể truyền thiện?”

“Cơ thể nàng vẫn còn yếu, những chuyện này không cần nàng nhọc lòng.” Vẻ mặt Tề vương trở nên dịu dàng, không tán thành nói.

Ánh Liễu mím môi cười: “Thiếp thân đã khỏi hẳn, điện hạ lo lắng rồi.”

Án Ly trầm tư nhìn hai người mắt qua mày lại, ông bất giác chau mày, đợi khi Ánh Liễu lui ra dặn nhà bếp chuẩn bị truyền thiện, ông mới từ tốn nói: “Có vài lời là liên quan tới chuyện nhà của điện hạ, theo lý thì thuộc hạ không nên lắm lời, nhưng thuộc hạ cảm thấy không thích hợp nên vẫn muốn nói với điện hạ.”

“Tiên sinh cứ nói.” Tuy Tề vương hơi bất ngờ, nhưng vẫn thẳng lưng, bày ra tự thế mời nói.

“Từ xưa đến nay nam chủ ngoại nữ chủ nội, hiện giờ mỗi bước đi của điện hạ đang rất gian nan, tình hình của Lệ phi nương nương ở trong cũng không mấy lạc quan, nếu lúc này điện hạ muốn nắm rõ tình hình trong cung thái cực, kế hay nhất là để vương phi nương nương vào cung hỏi thăm Lệ phi nương nương.”

“Huống hồ vương phi nương nương xuất thân từ phủ Tĩnh An hầu, là đích nữ của Tĩnh An hầu, Tĩnh An hầu hiện giờ lại là thúc ruột của nàng, tuy mấy năm nay Tĩnh An hầu đã lạnh nhạt với việc trong triều, nhưng mối quan hệ tích lũy bao năm vẫn còn đó, giờ đang là thời điểm cần dùng người của điện hạ, đáng lẽ ngài nên biết làm những gì có lợi nhất cho mình mới phải.”

Sắc mặt Tề vương cứng đờ, thần sắc hơi mất tự nhiên.

Hắn đương nhiên hiểu ý tứ thực sự trong lời nói của Án Ly, ông muốn nhắc mình phải cải thiện mối quan hệ với Tào Thị.

Thật ra, sau lần bị Nguyệt quý phi gài bẫy và bị Thiên Hi đế tống vào thiên lao, hắn đã nảy sinh một cảm giác khó hiểu với Tào Thị. Khi đối diện với nàng, hắn đã không còn chưa nói được ba câu đã nổi giận phất tay áo bỏ đi nữa, mà hầu hết đều trầm mặc không nói.

Giờ nhớ lại mấy năm về trước, hắn không nhớ nổi vì sao mối quan hệ giữa mình và nguyên phối vương phi lại trở nên căng thẳng như vậy. Hắn tự nhận mình không phải là người dễ cáu kỉnh bốc đồng, nhưng không biết vì sao mỗi lần chung đụng với nàng, hắn đều bị nàng chọc tức mà đi.

“Bản vương sẽ ghi nhớ lời tiên sinh nói.” Hồi lâu, hắn mới ngượng ngùng đáp.

Án Ly biết mình có hơi vượt phép nên cũng không nói nhiều nữa, khẽ cười rồi đứng dậy lui ra.

Ra đến ngoài cửa, ông bắt gặp Ánh Liễu đang đi vòng về, thấy mình thì khom người làm lễ phúc thân, ông thấy vậy vội vàng nghiêng cười tránh: “Liễu cô nương khách sao rồi.”

“Tiên sinh không ở lại dùng bữa tối rồi hẵng đi sao?” Ánh Liễu mỉm cười hỏi.

“Không cần, cô nương khách sáo rồi.” Án Ly gật đầu tỏ ý, chắp tay sau lưng đi lướt qua nàng.

Đi được một đoạn ông vẫn không nhịn được mà dừng bước, nhìn Ánh Liễu kia đẩy cửa tiến vào thư phòng, một lát sau, ông lặng lẽ lắc đầu.

Nữ tử này huệ chất lan tâm(*), tính tình dịu dàng biết tiến biết lùi, là một mỹ nhân biết đoán lòng người, so với Tề vương phi tính tình ngay thẳng, cao ngạo tự đại thì nàng ta quả thực có khả năng lấy lòng nam tử hơn, chẳng phải một người không gần nữa sắc như Tề vương điện hạ cũng phân biệt đối xử với nàng ta đấy sao?

(*) Huệ chất lan tâm: dùng khen tặng một người con gái có phẩm chất thanh cao như loài hoa Huệ và tâm hồn hiền dịu như loài hoa Lan.

Đáng tiếc là xuất thân của nàng ta hơi thấp, nếu Tề vương chỉ là một nam nhi con nhà phú quý bình thường thì cũng không sao, nhưng ngài ấy lại là con nhà đế vương. Nếu sau này ngài ấy may mắn ngồi lên vị trí tối cao đó, Ánh Liễu cô nương sẽ không thể đối phó được với những cáo mệnh phu nhân có xuất thân thế gia kia.

Ông thở dài lắc đầu, cuối cùng chắp tay sau lưng rời đi.

Lại nói về phu phụ Lăng Đại Xuân, họ ở phủ Định Viễn tướng quân hơn nửa ngày, trước khi đi, Dương Tố Vấn lưỡng lự một lát, song vẫn hỏi: “Chử đại ca có nhắn bao giờ mới về kinh không ạ?”

“Không thấy huynh ấy nói gì, hôm qua ta vừa đến phủ thái tử, nhưng không gặp huynh ấy.” Lăng Ngọc nói.

Sau khi định ngày thành hôn không lâu, Chử Lương nhận lệnh ra ngoài làm việc, vì thế hắn chẳng những không thể lấy thân phận huynh trưởng tiễn Dương Tố Vấn ra cửa mà cuối cùng còn phải nhờ đến tiểu Mục.

Nháy mắt đã hơn mấy mấy tháng trôi qua, nhưng vẫn không có tin tức gì về Chử Lương, Dương Tố Vẫn không khỏi lo lắng.

“Muội không cần quá lo lắng đâu, những người như họ một khi nhận lệnh ra ngoài làm việc, đi hơn nửa năm không về là chuyện bình thường. Hơn nữa Chử thống lĩnh làm việc vững vàng, võ nghệ cao cường, nhất định sẽ không có chuyện gì đâu, muội cứ kiên nhẫn đợi là được.” Lăng Ngọc an ủi nói.

Với thân phận hiện tại của Chử Lương, thái tử đã phái hắn thì chắn chắn là chuyện quan trọng, e rằng ngoài đương sự ra, không ai biết hắn nhận nhiệm vụ gì, phải đi bao lâu mới trở lại.

Dương Tố Vấn nghĩ cũng thấy đúng, vì thế tạm thời yên tâm.

“Thật ra trước đó cũng có người hỏi thăm muội về Chử đại ca, người đó muốn giới thiệu một vị tiểu nương tử cho huynh ấy, nhưng vì huynh ấy không ở kinh thành nên muội cũng không tiện đồng ý, giờ vẫn chỉ nói đại cho qua chuyện.” Nàng lại cười nói.

“Thì ra muội vừa xuất giá, đã nóng lòng làm bà mai rồi?” Lăng Ngọc bật cười.

“Thì muội cũng chỉ nghĩ nếu bên cạnh huynh ấy có một người biết nóng biết lặng cũng tốt.” Dương Tố Vấn đỏ bừng cả mặt, hơi mất tự nhiên.

“Chuyện này thật sự phải xem ý của Chử thống lĩnh thế nào đã, muội không được tự quyết đâu đấy, nhất định phải có sự đồng ý của huynh ấy mới được.”

“Muội biết mà.”

Mấy hôm sau, Lăng Ngọc cuối cùng cũng nghe được tin Trình Thiệu Đường liên tục bị buộc tội, mặc dù nàng cũng biết Triệu Uân đã quở mắng mấy vị ngự sử trong triều, nhưng trong lòng nàng vẫn không yên tâm nổi.

Có thái tử bảo vệ đương nhiên là tốt, nhưng nó vô hình đã khiến Trình Thiệu Đường phải chịu nhiều lời gièm pha hơn, những kẻ có lẽ không dám nghị luận sau lưng thái tử, nhưng họ sẽ dồn sự bất mãn và oán hận tích tụ lên Trình Thiếu Chân gấp bội.

Nàng cảm thấy rất đau đầu, còn Trình Thiệu Đường đang ở quận Tây Nam xa xôi kia thì lại trầm mặc khi biết chuyện này.

“Tướng quân, những người kia hoàn toàn không phải ngài hạ lệnh giết, rõ ràng là Trấn Ninh hầu…” Có thuộc hạ bất mãn nói.

Trình Thiệu Đường quệt mặt, không để ý tới lời này của hắn ta mà hỏi ngược lại: “Vết thương của hầu gia giờ thế nào rồi?”

“Quân y nói phải tiếp túc tĩnh dưỡng một thời gian nữa, nhưng trong khoảng thời gian ngắn không thể ra trận giết địch.”

Trình Thiệu Đường cắn mạnh cánh môi.

Trong thời gian ngắn không thể ra trận giết địch, thời gian ngắn là bao lâu? Thật sự là trong thời gian ngắn, hay là về sau đều không thể.

Chàng rũ mắt, hồi lâu sau mới nói: “Để ta đi xem ngài ấy thế nào.”

Chàng đi vài bước thì dừng lại, thấp giọng phân phó: “Nay hầu gia đang cần an tâm dưỡng bệnh, đừng để ngài ấy biết chuyện hàng loạt dân phỉ bị giết hại.”

Thuộc hạ đó vừa nghe đã biết ngay chàng định gánh vác việc này, cánh môi mấp máy như muốn khuyên, song cuối cùng vẫn thở dài: “Tướng quân yên tâm!”

Thật ra, ngoài những tướng sĩ cùng Định Viễn tướng quân tới đây chi viện trước đó, những thuộc hạ của Trấn Ninh hầu cũng chẳng có mấy ai  lên tiếng bất bình giúp Định Viễn tướng quân. Hắn nghĩ, có lẽ bọn họ còn cảm thấy vui mừng khi tướng quân giúp hầu gia của bọn họ gánh tội danh này ấy chứ.

Lúc tới doanh trướng của Trấn Ninh hầu, quân y đang giúp Trấn Ninh hầu thay thuốc thấy chàng vào thì định tiến lên làm lễ, nhưng lại bị chàng ngăn lại.

“Không cần đa lê, vết thương trên người hầu gia thế nào rồi?” Câu cuối cùng hỏi về Trấn Ninh hầu.

Sắc mặt Trấn Ninh hầu tái nhợt, lông mày cau chặt vì vết thương đau nhức, nghe chàng hỏi vậy thì gắng gượng nở một nụ cười, mặt tỏ vẻ thản nhiên: “Đã đỡ nhiều rồi, cũng không cảm thấy đau nữa, có lẽ mấy hôm nữa là có thể chiến một trận với mấy thằng cháu rụt cổ kia rồi!”

Tuy thời gian này Trình Thiệu Đường bận việc chiến sự, nhưng vẫn luôn để ý tới vết thương của ông, làm sao chàng không biết tình hình của ông cho được, nghe giọng điệu giả vờ thoải mái của ông khiến lòng chàng càng nặng nề hơn, khuôn mặt ảm buồn bã, chua sót nói: “Nếu không vì cứu thuộc hạ, hầu gia cũng sẽ không…”

“Ngươi nói vậy là sai rồi, vết thương lần này không phải vì ngươi, mà là vì bản thân ta háo thắng.” Nụ cười trên mặt Trấn Ninh hầu tắt dần, thở dài nói.

Nếu không phải ông nóng lòng lập công thì làm sao có thể mắc mưu của kẻ địch, nếu hôm đó Trình Thiệu Đường không sớm có sự đề phòng, e rằng kết quả không phải là tổn binh hao tướng, mà là toàn quân bị tiêu diệt, còn ông thì chưa chắc đã giữ được cái mạng này, sợ rằng sau khi chết sẽ bị người đời thoái mạ!

Ông chật vật dựa lưng vào thành giường, nhìn chằm chằm chàng thanh nhiên trước mắt với ánh mắt phức tạp.

Quả đúng là hậu sinh khả úy, chả trách thái tử điện hạ lại tốn nhiều công sức bồi dưỡng hắn như vậy.

“Trình Thiệu Đường, ngươi nói thật cho ta biết, tình hình của bệ hạ bây giờ ra sao rồi? Tình hình trong kinh thế nào?” Một lúc lâu sau, ông cất tiếng hỏi khàn khàn.

Dẫu Trình Thiệu Đường không hiểu vì sao ông lại hỏi những việc này vào lúc này, nhưng chàng cũng không có ý giấu ông, nói tường tận những việc mình biết cho ông.

Trấn Ninh hầu nghe xong thì im lặng hồi lâu.

“Bệ hạ, ngài ấy….” Không biết qua bao lâu, Trình Thiệu Đường mới nghe được ông phát ta một tiếng thở dài tựa như ngàn lời nói.

“Kế tiếp, ngươi có cách gì để đẩy lùi địch không? Trải qua trận giao đấu vừa rồi, quân ta đã bị tổn hao binh tướng, còn bên phía Tây Nhung đã tăng binh, chỉ so về số lượng binh mã thì chúng ta đã rơi vào thế hạ phong rồi.” Nào ngờ một khắc sau đó, Trấn Ninh hầu lại chuyển đề tài, hỏi đến tình hình chiến sự.

Trình Thiệu Đường chấn động không thôi, sau một chốc trầm tư suy nghĩ, chàng nhỏ giọng nói chi tiết kế hoạch của mình.

Trấn Ninh hầu vừa nghe, vừa thầm gật đầu, trong lòng vừa cảm thán vừa vui mừng vừa đắng chát.

Triều đình có tướng tài, ông chết cũng không còn gì hối tiếc!

Bỗng nhiên tim ông truyền đến một cơn đau quặn thắt, cơn đau liên tục ập đến, đau đến nỗi mồ hôi lạnh trên trán ông túa ra, sắc mặt trắng như tờ.

“Hầu gia! Quân y!” Trình Thiệu Đường hoảng sợ cực độ, vội vàng vươn tay đỡ lấy ông rồi lớn tiếng gọi quân y.

“Không cần gọi, ta không sao, ngươi ngồi xuống đi, ta có lời muốn hỏi ngươi.” Trấn Ninh hầu ôm ngực, ngăn chàng đi gọi quân y.

Trình Thiệu Đường không thể không ngồi lên mép giường, ấn đường không giấu nổi vẻ âu lo, cố gắng khuyên nhủ: “Hầu gia có gì căn dặn cứ nói không sao cả, nhưng vết thương không thể trì hoãn được.”

Trấn Ninh hầu không thèm để ý lời chàng nói, ông nhìn chàng đăm đăm, trầm giọng hỏi: “Ta hỏi ngươi, ngươi gia nhập quân doanh là để bảo vệ dân chúng, bảo vệ nước nhà, hay là để giúp thái tử tranh quyền đoạt lợi!”

Trình Thiệu Đường giật mình, không ngờ ông sẽ hỏi một câu như vậy.

“Nói!!” Thấy chàng không nói, Trấn Ninh hầu khẽ quát, ánh mắt ông sắc  lẹm, không bỏ xót một biểu cảm nào trên gương mặt chàng.

“Không dám giấu hầu gia, lúc đầu Trình Thiệu Đường gia nhập quân đội chỉ vì kiến công lập nghiệp, để thê nhi được hưởng đặc quyền, khiến gia tộc Trình Thị có thể ngửa đầu ưỡn ngực làm người, không bị bất kì kẻ nào ức hiếp.” Trình Thiệu Đường thẳng thắn nhìn vào mắt ông, nói rành mạch từng từ, không hề giấu giếm.

Trấn Ninh hầu nghe xong cũng không lên tiếng, nhưng ánh mắt nhìn chàng càng phức tạp hơn.

Chàng đương nhiên nhìn ra được, nhưng đây là những lời xuất phát từ đáy lòng chàng, không hề giả dối.

“Được lắm, ngươi có biết, nếu một người muốn tạo dựng cơ nghiệp, muốn sau này thê nhi có thể được hưởng đặc quyền, thì trong suốt quá trình phải giẫm lên hài cốt của vô số người, ‘Nhất tướng công thành vạn cốt khô’ chính là đạo lý này.”

(*)Nhất tướng công thành vạn cốt khô: Một tướng thành công vạn người bỏ xác.

“Trên chiến trường, không phân biệt đúng sai, không phân biệt địch ta, theo hầu chủ nào, sinh ra ở đâu. Ngươi cần phải nhớ một câu, nhân từ với kẻ thù là tàn nhẫn với bản thân! Ở trên chiến trường, thứ ngươi không nên có nhất chính là lòng đồng cảm, nhất là lòng đồng cảm với kẻ địch, ngươi đã hiểu chưa?!”

Trình Thiệu Đường rùng mình, cả người không kìm lại được mà ớn lạnh, còn chưa kịp đáp lại thì đã thấy ông cởi y bào trên người ra, sau đó chầm chậm quay lưng về phía chàng.

Đồng tử của chàng đột nhiên co lại dữ dội, không dám tin nhìn vào vết sẹo vừa dài vừa sâu, chạy từ vai phải đến thắt lưng của ông.

Chỉ dựa vào vết sẹo này là chàng có thể mường tượng được vết thương năm đó rốt cuộc có bao nhiêu nghiêm trọng!

“Vết thương này do một đứa trẻ mười hai tuổi chém, năm đó suýt nữa đã lấy mạng của ta! Song, đứa trẻ đó cũng chẳng có kết cục gì tốt, nó bị tướng sĩ dưới trướng ta vung đao chém chết, thi thể thảm thương không nỡ nhìn.”

Trình Thiệu Đường như ngừng thở, nhất thời không biết nên nói gì, thấy Trấn Ninh hầu đang loay hoay thắt lại áo, chàng vội vàng đưa tay giúp ông mặc lại áo.

“Đứa bé đó làm gì sai sao? Không hề, trong mắt của nó, ta chính là một ác nhân hủy hoại quê hương của nó, theo lý thì đáng chém nghìn đao! Thế nhưng, ta tự hỏi mình sống đến từng tuổi này, nhưng chưa từng làm gì thẹn với lòng, cho nên, dẫu nó có chết trên tay ta, ta cũng chưa từng hổ thẹn!”

“Những năm đầu thời Thiên Hi, người Đông Minh xâm lược quốc thổ ta, làm hại dân chúng, ta phụng mệnh bệ hạ dẫn binh xuất chinh, trước khi đi từng lập sinh tử trạng, thề không trục xuất người Đông Minh ra khỏi bờ cõi thì không về! Mùa hè năm Thiên Hi thứ hai, quân Đông Minh rút khỏi trung nguyên; năm Thiên Hi thứ ba, ta tự mình dẫn mười vạn đại quân truy kích quân Đông Minh, đi sâu vào quốc thổ Đông Minh mấy trăm dặm, chém giết vô số người Đông Minh. Trong khoảng thời gian đó, đã có vô số dân chúng Đông Minh đứng lên phản kháng, song đều chết dưới lưỡi đao của ta, phụ mẫu người thân của đứa trẻ kia cũng vậy!”

“Trình Thiệu Đường, ngươi nói xem những dân chúng Đông Minh có oán hay không? Đứa trẻ kia có oán hay không?”

“Oán! Thế nhưng, dẫu biết họ vô tội, chết oan chết ức, nhưng ta vẫn không nương tay. Vì ta biết rằng một khi ta nương tay sẽ không phải chỉ có một mình ta ngã xuống, mà còn cả các tướng sĩ cùng ta vào sinh ra tử, thậm chí là cả dân chúng vô tội của nước ta!”

Nói đến đoạn kích động, Trấn Ninh hầu không nhịn được mà ho sạc sụa, Trình Thiệu Đường vội giúp ông thuận khí, đợi ông bình ổn lại mới tiếp tục ngồi xuống mép giường, siết chặt nắm tay.

“Những lời hầu gia nói thuộc hạ đều hiểu cả.” Hồi lâu, chàng mới cất giọng khàn khàn nói.

Tiếng hít thở của Trấn Ninh hầu có phần dồn dập, ông dựa vào đầu giường nhìn chằm chằm chàng, sau một lúc lâu ông mới lấy từ dưới gối ra một tấm phù lệnh, tự tay đặt nó vào lòng bàn tay chàng.

“Chiến sự sau này sẽ giao hết cho ngươi!”

Trình Thiệu Đường sững sờ, nhìn vào tấm hổ phù trên tay mình với vẻ không dám tin.

“Việc này…..”

“Trong lòng ta biết rõ sức khỏe của mình, e rằng không có cách nào chèo chống xong trận chiến này. Nếu thái tử điện hạ đã phái ngươi tới, nhất định ngài ấy tin chắc rằng ngươi có năng lực này, và ta cũng tin với năng lực của ngươi, nhất định có thể xoay chuyển tình thế thất bại của quân ta hiện giờ!”

Trình Thiệu Đường cầm lấy tấm hổ phù, chàng không biết mình đã quay về doanh trướng thế nào, nhưng từ lúc về đến giờ chàng chỉ ngồi dựa lên ghế, chau mày suy tư.

Năm đó, từ việc bị buộc phải hộ tống thái tử đang bị truy sát về kinh, đến việc lần đầu tiên chấp hành nhiệm vụ ám sát sau khi vào phủ thái tử làm việc, vì nhất thời mềm lòng mà chàng xém bị ‘nữ tử yếu đuối’ bắn chết bằng ám khí; đến lần cứu giá ngoài ý muốn trong lễ vạn thọ sau đó, chàng được thái tử hết lòng tiến cử làm thuộc hạ của Trấn Ninh hầu.

Cho đến nay, chàng không nhớ nổi mình đã vào sinh ra tử, mạng như mành chỉ treo chuông bao nhiêu lần, cũng không nhớ nổi đã có bao nhiêu người chết trên tay chàng. Có người vô tội, có người không vô tội, nhưng hầu hết là những người đến cả chàng cũng không phân biệt được họ có vô tội hay không.

Trận chiến với Tây Nhung lần này giống như một cuộc giằng co, hai bên đều đã tăng binh, đều đã phái ra những danh tướng mạnh mẽ nhất trong triều, vốn tưởng rằng đây chỉ là một trận đánh nhỏ lẻ, nhưng đến nay nó giống như đã trở thành một trận giao chiến sinh tử.

Với sự có mặt của viện binh, Trấn Ninh hầu định đánh hạ Tây Nhung, hoàn toàn ổn định thế cục ở quận Tây Nam; sau khi Tây Nhung trải qua một cuộc đảo chính, tân quốc quân lên ngôi nhanh chóng tăng quân, mời Tháp Lỗ, danh tướng đã bặt vô âm tín nhiều năm về.

Hiện tại hai bên đều đang ngang sức, nhưng Tây Nhung chiếm ưu thế về địa lý, nên tình hình này có lợi cho họ hơn.

***

Tin Trấn Ninh hầu bị thương nặng trên chiến trường, Định Viễn tướng quân Trình Thiệu Đường nhận nhiệm vụ lúc lâm nguy, thống lĩnh đại quân đối chiến với Tây Nhung nhanh chóng truyền về kinh thành, ngay lập tức, trong lòng triều đình và dân chúng đều hoảng sợ.

Đến cả một người bách chiến bách thắng, cả đời chưa từng bại trận như Trấn Ninh hầu còn bị thương trên chiến trường, đủ để thấy quân đội Tây Nhung hung hãn đến mức nò, có lẽ không lâu nữa sẽ có tin dữ truyền từ tiền tuyến về, báo rằng quân Tây Nhung xâm nhập quốc thổ, xông vào trung nguyên!

Nhưng càng có nhiều người không hiểu tại sao Trấn Ninh hầu lại chọn giao quân đội cho một người chưa từng lên chiến trường như Trình Thiệu Đường. Chỉ khi có người bĩu môi nhìn về phía Đông Cung, mọi người lập tức vỡ lẽ, sau đó thì ngửa mặt lên trên thở dài.

Vào thời khắc sinh tử tồn vong này, thay vì lựa chọn người tài, ông ấy lại khuất phục trước quyền thế, coi tính mạng của các tướng sĩ và người trong thiên hạ như trò đùa của trẻ con, quyết định lần này của Trấn Ninh hầu quả nhiên là già nên hồ đồ(*)!

(*)Chỗ này là 晚节不保, ý chỉ tuổi già nhưng không bảo vệ được tiết tháo của mình. Tiết tháo = khí tiết, hành vi, phẩm chất, đạo đức,.

Trong kinh thành, có rất nhiều các học sĩ ngay thẳng lòng mang thiên hạ tụ tập tại các tửu lầu, họ lên án kịch liệt triều đại đương thời lợi dụng quyền lực để tư lợi, coi thường tính mạng của dân chúng, khi đất nước lâm vào thời khắc sinh tử tồn vong vẫn chỉ quan tâm đ ến đủ loại hành vi xấu xa để tranh giành quyền lực,  lớn tiếng tha rằng nước không là nước, dân chúng lầm than.

Không có bất kì ai chỉ rõ mình đang mắng ai, nhưng ai ai cũng biết mình đang mắng người nào.

“Ta nhổ vào, đám các ngươi chỉ là cái lũ sa cơ thất thế đánh rắm bằng mồm, nếu cảm thấy nước không là nước, dân chúng lầm than thì sao không vứt quách cái bút mà đi tòng quân đi. Sao không lao ra chiến trường, lấy thân mình chống lại người Tây Nhung để cứu vớt dân chúng trong thiên hạ đi, sao còn ở đây bép bép cái mồm, chửi hùa theo người khác vài câu mà các ngươi đã cho rằng mình là danh sĩ khí phách, lòng mang thiên hạ, không sợ cường quyền sao?!”

“Các tướng sĩ ở biên cương đều đang đồng lòng, anh dùng giết địch, chỉ để trả lại cho mảnh đất Tây Nam ta sự yên bình, bây đang là lúc cấp bạch, các ngươi không chỉ không cổ vũ các tướng sĩ, mà còn tụm năm tụm ba ở đây ăn nóng xằng bậy, đã thế còn luôn mồm nói  bóng nói gió rằng cá tướng sĩ bên ta nhất định sẽ thua, Tây Nam nhất định thất thủ, tại sao các ngươi lại khẳng định như vậy? Ta có quyền nghi ngờ các ngươi là đám gian tế Tây Nhung lẻn vào trung nguyên ta làm nhiễu loạn lòng dân!”

Bỗng nhiên, tiếng chỉ trích đầy phẫn nộ của một nam tử trẻ tuổi đã phá vỡ lòng căm phẫn sục sôi của mọi người, và khi họ hiểu ẩn ý bên trong lời nói sắc bén kia thì sắc mặt ai nấy đều không khỏi đại biến.

Trong thời điểm nhảy cảm như vậy,  ai dính đến chữ gian tế Tây Nhung nhất định sẽ không có kết cục tốt, mà lời chỉ trích của nam tử trẻ tuổi này đã thu hút không ít cái lườm nguýt của dân chúng đi ngang qua, ánh mắt của mọi người nhìn họ cũng mang theo vẻ ngờ vực.

“Đúng là hoang đường! Ai, ai khẳng định tướng sĩ của chúng ta nhất định sẽ thua, quận Tây Nam nhất định thất thủ chứ?” Có người lắp bắp phản bác.

“Lúc nãy các ngươi rõ ràng nói oang oang còn gì, tưởng người ta không nghe thấy sao?” Trình Thiệu An đỏ bừng cả mặt, lớn tiếng đốp lại.

“Chúng ta chẳng qua chỉ lo lắng Trình tướng quân còn trẻ, không đủ kinh nghiệm tham gia chiến đấu, đánh không lại đại quân Tây Nhung khí thế ngút trời kia.”

“Trấn Ninh hầu chính đệ nhất dũng tướng của triều ta, ngài ấy được biết đến với mĩ danh bách chiến bách thắng, vì thế người mà ngài ấy chọn nhất định sẽ có điểm hơn người, ta thấy các ngươi đang cố ý bôi nhọ, cố tình gây ra sự hoang mang trong lòng dân chúng thì có!” Trình Thiệu An từng bước ép sát.

“Vô lý, chúng ta không thèm tốn công tranh cãi với kẻ mãng phu như người!”

………

“Phu nhân, đám người kia rõ là không dám tranh luận với nhị gia.” Nghe đến đây, Phục Linh quay người phúc lễ với Lăng Ngọc đang ngồi trong phòng, khẽ nói.

Lăng Ngọc gật đầu, nhưng ấn đường vẫn đượm vẻ âu lo.

Đây rốt cuộc là sự bùng nổ do quan viên và dân chúng bất mãn với thái tử, hay là có người cố tình dẫn dắt chiều hướng dư luận?

Nhưng dù có là vế nào thì lần này Trình Thiệu Đường đã bị đẩy lên vách núi, không còn đường lui! Nếu chàng thắng, thái tử nhất định sẽ nhân cơ hội này đẩy chàng l3n đỉnh võ tướng, chàng cũng sẽ được đón nhận sự vinh quang lớn nhất. Nhưng nếu thua….

Lăng Ngọc rùng mình một cái, nàng không dám nghĩ tiếp nữa.

***

Trong cung thái cực, Lệ phi nhẹ nhàng lau nước thuốc trên khóe miệng Thiên Hi đế, kể cho ông nghe chuyện lặt vặt trong phủ Tề vương như mọi ngày.

Ví dụ như hoa mẫu đơn xanh trong vương phủ đang nở hoa, Tề vương định mang nó vào cung nhưng lại sợ bệ hạ không ngửi được mùi hương này; ví như thị thiếp trong phủ lại hoài thai, thái y nói cái thai rất khỏe, có khả năng là song thai.

Thái giám tổng quản ở phía sau Lệ phi chốc chốc lại đưa mắt nhìn bà, nhưng không hề lên tiếng làm phiền, hai chân cũng không hề cử động.

Sự tàn bạo trong mắt Thiên Hi đế vô thức giảm đi rất nhiều, nhưng khi ông nghe Lệ phi lơ đãng nói ra từ ‘rừng hoa đào’, đồng tử lập tức co lại, dần dà ánh mắt có chút hoài niệm.

Lệ phi vẫn làm như không biết, tiếp tục dịu dàng nói: “……… Rừng đào kia còn đẹp hơn rừng vườn đào trong tướng phủ năm đó, nếu đợi đến lúc hoa đào nở hết, mỹ cảnh đó khiến thần thiếp như quay lại tuổi thanh xuân.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.