Cát nhấp nhô, dưới ánh mặt trời óng ánh như những đợt sóng vàng kim, dõi mắt về chân trời, dãy núi màu trắng trải ngang mặt đất, mênh mang rộng lớn, dưới bầu trời xanh biếc, màu sắc hiện lên rõ ràng, diễm lệ, khiến người ta phải cảm thán trời đất bao la, bản thân bé mọn.
Yên tĩnh đến cực độ, không nghe thấy tiếng côn trùng chim chóc, chỉ có tiếng gió, rì rào thổi qua, gió không mạnh, nhưng vì có tiếng gió mà cảm nhận được sự tĩnh mịch khác thường, yên lặng đến mức có thể nghe thấy tiếng tim đập.
Những con lạc đà nối thành một dải, lặng lẽ trầm mặc, từng bước từng bước để lại dấu chân trên những đụn cát được gió quét lên vân nước, tiếng chuông lanh canh mộc mạc, phá tan tĩnh lặng.
Cố Tích Triều cuộn người trong lớp trường bào ngăn đỡ sức nóng cháy bỏng của vầng mặt trời mùa hạ sa mạc vào mùa hạ, dù có là sáng sớm, ánh mặt trời cũng nóng đến thiêu đốt.
Bướu lạc đà mềm mềm, lắc lư chao đảo, thân người cũng không tránh khỏi dao động theo từng bước chân lạc đà, nhưng Cố Tích Triều không để ý gì đến chặng đường lắc lư này, chỉ chăm chú dõi nhìn về phía xa.
Nơi này trước sau trái phải đều mênh mông vô tận, nhìn không thấy phương hướng, lữ khách lần đầu tiến sâu vào sa mạc không khỏi cảm thấy như lạc lối.
Vô Tình ngồi trên con lạc đà phía sau Cố Tích Triều, trên bạch y tuy có bám cát bụi, nhưng sắc mặt vẫn yên tĩnh tự tại như đang ngồi trong trúc xá mát rượi, không có bực bội, không có nôn nao.
Nhưng bốn kiếm đồng của Vô Tình thì đã hơi mất kiên nhẫn rồi, người nhỏ nhất là Thiết Kiếm nhịn không được, thúc lạc đà đi tới bên Vô Tình: “Công tử, đi được hai ngày rồi, chắc đến nơi rồi??”
Vô Tình nhẹ nói: “Đừng gấp, chắc gần đến rồi.” Nói không nhiều, nhưng trong khẩu khí có sự ôn hòa và xoa dịu.
Đồng Tiền dẫn đường la lớn: “Hôm đó chúng tôi gặp được ốc đảo cổ quái đó, sau đó rút khỏi sa mạc thì mất khoảng hai ngày đường, bây giờ chúng ta đi chậm, không vội vàng như lần trước, nên chắc là còn nửa ngày nữa sẽ đến.”
Người trông coi lạc đà tên là Hoàng Tam, cũng coi như là tay cựu binh trong Khinh Bôi Túy, từng nhiều lần ra vào sa mạc Qua Bích (sa mạc Gobi), hay đi qua tuyến đường này, lần này cũng theo cùng đoàn, nghe Thiết Kiếm hỏi, mới nhìn theo bóng mặt trời quan sát phương hướng, nói: “Sắp tới rồi, phương hướng không sai, đi thêm chút nữa sẽ tới một ốc đảo nhỏ, chúng ta ở đó nghỉ ngơi chỉnh đốn lại, tránh mặt trời giữa trưa rồi hãy đi tiếp.”
Cát Vân đạo trưởng và hai đệ tử đi cuối đoàn, dù sao cũng là người tu hành lâu năm, khác với người bình thường, ở trong sa mạc mênh mông này mà vẫn không thấy chảy mồ hôi, hơi thở trầm sâu, thần thái tĩnh tại.
Trong hành trình, phần lớn thời gian Cố Tích Triều đều im lặng ít lời, lần này đi Minh Sa Sơn, trong lòng luôn có dự cảm không lành.
Suy nghĩ luôn có chút hỗn loạn, cảm giác không thoải mái không biết từ đâu ngoi lên, dù biết rõ thứ phải đối mặt lần này vô cùng quỷ dị, nhưng cảm giác trong lòng không phải là sợ hãi mà là một thứ cảm giác đè nén nặng nề.
Từ khi vào trong ảo ảnh này, hình như đã dần dần quên mất mình từ đâu mà đến, không ngờ chỉ một nhúm nhỏ bột Chuyển Phách Tán lại bất tri bất giác duy trì ảo ảnh đến gần hai tháng!
Cố Tích Triều chợt nghĩ: Thứ bột đó kỳ dị như vậy, làm như thực sự có thể khiến ảo ảnh cứ tiếp diễn mãi, nếu như vậy, thân thể của mình ở bên kia sẽ như thế nào? Hay là, đây chính là tình trạng xảy ra khi hồn phách cứ lưu lại mãi ở nơi này?? Chiếu Cốt Bảo kia liệu có dẫn mình quay về được hay không??
Trong một tháng này, bao nhiêu chuyện xảy ra, không có chút thời gian rảnh rỗi, trong lòng có đủ thứ chuyện bận tâm, chuyện này đi lại có chuyện khác tới, Cố Tích Triều thực sự không thể nào tĩnh tâm lại để suy nghĩ về bí ẩn của ảo ảnh này!
Sau đó lại nghĩ đến Thích Thiếu Thương, khi mình leo lên lạc đà, bắt đầu chuyến hành trình này, trong mắt Thích Thiếu Thương phải chăng là lo âu và cô độc?
Dáng dấp người nam tử đó dắt Thanh Câu Oản Đậu, đứng trầm mặc trong gió, dõi mắt tiễn mình đi dường như vẫn ở ngay trước mắt…
Trong lúc Cố Tích Triều còn đang chìm trong suy tư của mình, chợt nghe thấy có người reo lên: “Công tử, xem kìa! Ốc đảo!!”, thì ra bọn người Thiết Kiếm đã nhìn thấy một mảng xanh lục nhỏ ở bên trái phía trước.
Tuy nhóm người này đều không phải thương nhân du mục bình thường, thể lực và sức chịu đựng đều hơn người, nhưng dưới ánh mặt trời thiêu đốt, chịu đựng luồng khí nóng từ cát xông lên mà đi một quãng đường dài như vậy cũng đã mệt mỏi kiệt sức rồi lúc này nhìn thấy một mảng xanh mướt, tinh thần cũng phấn chấn lên, bất giác thúc hông lạc đà chạy nhanh về phía trước.
Lạc đà thân cao chân dài, khi chạy cũng không thua gì ngựa, có điều rất đảo, làm người ta chóng cả mặt…
Ốc đảo không lớn, có mấy cây hồ dương[1], một miệng giếng đất bên cạnh giếng có hai cái thùng và một cái gáo. Đây là quy tắc trong sa mạc, lữ khách đi qua sẽ tự lấy để múc nước, nhưng sẽ không mang đi mất thùng gỗ và gáo nước này, vốn là thứ đem đến hy vọng cho người lữ hành trong sa mạc.
Mọi người đều xuống lạc đà, múc đầy túi nước và cho lạc đà uống nước.
Hoàng Tam chỉ huy lạc đà quây thành một vòng tròn ngồi phục xuống đất, mọi người thì đi tìm một chỗ mát mẻ để ngồi xuống, đợi cho mặt trời gay gắt lúc chính Ngọ qua đi.
Chân của Vô Tình không thuận tiện, mấy kiếm đồng trải một tấm thảm lên đất cát, Vô Tình ấn tay lên lưng lạc đà, nhẹ nhàng lướt qua, khi chạm đất thì hai tay lại ấn lên mặt đất, y sam phất nhẹ, ngồi ngay đúng trên thảm, những người khác nhìn một loạt cử động này vô cùng nhẹ nhàng phiêu dật, đều không nén được thốt lên “Hay!”
Vô Tình thần sắc vẫn bình thản, nhận lấy túi nước do Kim Kiếm đưa qua.
Lão đạo sĩ Cát Vân cũng không khỏi thán phục: “Hèn chi vị tiểu ca này hành động bất tiện nhưng lại đi theo, quả nhiên thân thủ hơn người!”
Cố Tích Triều lại không quan tâm đến chuyện bên này, cầm lấy gáo nước đứng ngẩn ra bên miệng giếng.
Vi Trần Tử thấy y có vẻ lạ, mới đi qua hỏi: “Cố công tử, sao vậy??”
Cố Tích Triều “À” một tiếng, như sực tỉnh mộng, lại ngẫm nghĩ, rồi hỏi: “Đạo trưởng, khi uống nước, ta chợt nghĩ đến một vấn đề, hôm đó Gia Hỷ Lỗ Đinh nói bọn họ ở trong ảo ảnh lấy nước nấu cơm, mà đã là ảo ảnh, vậy không lẽ nước mà người trong thương đội uống thực ra cũng không phải là nước??”
Cát Vân cũng nghe được, ánh mắt dao động, gật đầu nói: “Ngươi rất tinh ý, kỳ thực ta cũng suy đoán mãi, nước mà lúc ban đầu họ uống rốt cuộc là gì. Ta đoán, ngày hôm đó họ nhất định đã uống nước, chỉ là nước đó có chỗ kỳ quái.”
Cố Tích Triều hỏi: “Trong ảo ảnh cũng có thể uống nước?”
“Được, loài Thận bình thường không thể tạo ra được ảo ảnh chân thực đến như vậy, thậm chí cả trời sáng lên, mặt trời mới mọc cũng có thể bắt chước được, vì vậy, ta nghĩ, bọn họ nhất định là đã uống phải nước bọt của Sa Thận!”
Cố Tích Triều nghe nói liền thấy nhợn: “Nước bọt của Thận??”
Vô Tình cũng chú ý đến cuộc đối thoại của hai người: “Ý đạo trưởng là vì uống phải nước bọt của yêu quái đó, nên càng dễ bị ảo ảnh mê hoặc?”
“Không sai, cái hồ nhỏ đó, chỉ e là nước bọt của Sa Thận!” Cát Vân thần sắc cẩn trọng, nói như đinh đóng cột: “Yêu quái đó cực kỳ xảo quyệt, hóa ra quang cảnh vô số động vật uống nước, khiến thương đội không hề chú ý xem nước này rốt cuộc có sạch sẽ không, cứ xem như chuyện đương nhiên mà nấu nước làm cơm, pháp thuật của Sa Thận cứ như vậy mà xâm nhập vào trong xương cốt kinh mạch, khiến ảo ảnh sau đó càng khó dứt bỏ.”
Cố Tích Triều lại hỏi: “Khi đó Truy Mệnh bảo Lãnh Huyết bắn mặt trời, sau khi bắn, ảo ảnh lập tức tan biến, đó lại là thế nào?” Cố Tích Triều tinh thông kỳ môn ngũ hành, lúc đầu nghĩ rằng đây có thể là mắt của trận pháp, nhưng sau đó nghe Gia Hỷ Lỗ Đinh kể có tiếng gào thê thảm, Cố Tích Triều từ trực giác cho rằng đó không thể nào là mắt của huyễn trận.
Cát Vân nói: “Thận yêu hóa ra ảo ảnh, là dùng khí mình nhả ra làm thành màn trời trùm lên con người, trong ảo ảnh đó, mặt trời mặt trăng, tinh tú, sông hồ, lầu các đa phần đều là một bộ phận của Thận… Ta đoán, mặt trời trong ảo ảnh đó nói không chừng chính là mắt của Thận yêu!”
Cố Tích Triều và Vô Tình nhìn nhau, lòng đều kinh ngạc: đạo sĩ của Triều Nguyên Quán thường ngày hay tiếp xúc với yêu ma quỷ quái, hiểu biết về yêu quái đương nhiên là hơn hẳn Cố Tích Triều và Thành Nhai Dư, nếu quả thực là vậy, năng lực của yêu quái này chỉ e còn vượt cả dự liệu của hai người!
Những người xung quanh ít nhiều đều nghe được lời nói của mấy người này, nghĩ đến giữa vùng sa mạc mênh mông, sức người nhỏ nhoi, quái vật thâm sâu khó dò, đều thấy có chút run sợ.
Mặt trời ngả về tây, đoàn người lại xuất phát, lúc này gió đã nổi lớn, thỉnh thoảng lại bốc cát bụi lên thành những trận khói mù màu vàng, mặt trời như quả cầu đỏ khổng lồ treo trên đường chân trời, diễm lệ mênh mang.
Đoàn lạc đà dẫm trên ánh chiều chầm chậm bước đi, trong cơn gió từ phía trước thổi lại, không biết tự lúc nào đã mang theo tiếng ca như kể như than…
Đồng Tiền nói: “Sắp đến Minh Sa Sơn rồi[2], đi thêm chút nữa, sẽ đến được chỗ ốc đảo gặp được hôm đó.”
Trong ráng chiều xa xa, thấp thoáng bóng dáng một dãy núi, mơ hồ, ôn hòa, không thấy góc cạnh, cũng không mấy to lớn.
Lại gần hơn, liền thấy một dải hồ nước trong veo, nằm lặng bên chân núi.
Lúc này, vầng mặt trời đã chìm vào trong ráng chiều, chỉ có một tơ hồng cam còn lưu luyến nơi chân mây mảnh trăng non trắng nhợt sớm đã treo lên vòm trời, soi bóng xuống dải nước lặng.
Cái hồ nhỏ hình trăng khuyết, lặng lẽ nâng đỡ một vầng trăng khuyết, Đồng Tiền nói: “Đây là Nguyệt Nha Tuyền[2]! Nếu lên trên Minh Sa Sơn nhìn xuống sẽ thấy còn đẹp hơn!”
Cố Tích Triều nhìn về cụm núi đen thẫm, gió thổi qua đá núi, cất lên giai điệu u sầu nỉ non, như là lời rủ rỉ thở than vọng về từ dị vực.
Cố Tích Triều biết rõ đó là do kết cấu núi đá đặc biệt, sa thạch rỗng khiến cho khi gió thổi qua trong không khí xao động phát ra tiếng vang, nhưng tiếng gió cuộn xoáy biến chuyển bên tai vẫn gây cảm giác kỳ dị, như có một luồng âm khí cứ mãi quanh quẩn.
Rất lâu sau này, khi đại Tống đã tan vụn khỏi trần thế, khi Đại Liêu, Tây Hạ cùng Lâu Lan, Đôn Hoàng trong cõi sa mạc này cũng trở thành cát bụi, Minh Sa Sơn cùng Nguyệt Nha Tuyền vẫn sẽ mãi lặng lẽ nằm đó, làm chứng nhân cho thế sự đổi dời??
Cố Tích Triều nhất thời cảm khái, quên mất phải thúc lạc đà đi tới, chỉ đứng lại giữa sa mạc, lặng lẽ ngắm nhìn, mặc cho thời gian bao trùm lấy mình…
Những con lạc đà phía sau dần vượt qua Cố Tích Triều, chừng như thời gian trôi chảy, để lại Cố Tích Triều như đang lội ngược dòng giây khắc này, Cố Tích Triều nghĩ đến rất nhiều người, rất nhiều việc, thậm chí nghĩ đến cha mẹ khi tham gia khảo cổ, đã từng chụp lại ảnh của Minh Sa Sơn.
Hóa ra, Minh Sa Sơn trên ảnh và Minh Sa Sơn nhìn tận mắt lại khác biệt đến vậy, ngọn núi không mấy cao do sa thạch chồng chất lên mà thành ở trước mắt này, ở giữa biển cát mênh mông lại toát lên vẻ cô độc và tang thương vô hạn.
Lòng Cố Tích Triều chợt có chút sáng tỏ, hết thảy mọi thứ này đều đã là quá khứ, bản thân mình có lẽ không thể tìm ra được gì trong đó, dù cho có tìm được gì thì cũng không còn ý nghĩa nữa rồi, tất cả mọi chuyện trước mắt đều chỉ là một đoạn lưu ảnh của quá khứ xa xôi.
Chỉ là, trong lòng Cố Tích Triều, luôn thấy như có một mắc xích khuyết đi, có lẽ, trên con đường này có thể tìm lại được mắc xích thất lạc đó, gắn vào lại chỗ khuyết…
Cố Tích Triều nhẹ thúc lạc đà, con lạc đà chạy nước kiệu tới trước, trong bóng tà dần tắt, đuổi theo chuỗi tiếng chuông lanh canh.
Tiếng gió nỉ non càng thêm ai oán…
Rõ ràng đang mùa hạ, gió lại thốc mạnh, ùa vào cửa sổ, “vù” cái kéo ngọn lửa nến run rẩy thành một quầng sáng dài, rồi, “phụp” một tiếng, lửa tắt, chỉ còn một làn khói mảnh cuộn lên.
Trong phòng nhất thời chìm vào bóng tối, ánh trăng nhợt nhạt âm u liền thừa cơ tràn vào, chiếu lên bàn sách, ngoài cửa cành lá ngô đồng hắt vào những bóng hình đen tối.
Mặt Thích Thiếu Thương trầm như nước, ngồi trong bóng tối, hồi lâu mới thổi hỏa chiết tử, thắp lại ngọn nến.
Trận gió mạnh chợt ập đến đó, khiến trong lòng Thích Thiếu Thương chợt kinh động, cơ hồ có cái gì đó khiến kẻ luôn gan dạ như hắn cũng thấy bất an.