Thiên Hạ
Chương 398 : Sơn cốc cấm địa
gacsach.com
Bọn binh sĩ nghe lệnh đều xuống ngựa tìm chỗ nghỉ. Lý Khánh An cũng xuống ngựa. Hắn tìm một tảng đá to bên đường ngồi xuống, rồi quay sang nói với Lưu Yến bên cạnh: “Lưu thự lệnh cũng qua đây ngồi nghỉ một lát.”
Lưu Yến đi đến ngồi cạnh. Lúc này, một thiếu nữ thanh tú bung mát bát nước cho Lý Khánh An. hắn nhận lấy vào cười nói: “Ngụy lão trượng. ta nhớ đây là cháu gái của lão, đúng không? Năm ngoái còn là một tiểu nha đầu. thế mà năm nay đã lớn thế này.”
nghe hắn nói mà mặt thiếu nữ đỏ ửng lên vội trốn sau lưng tổ phụ. Ngụy lão trượng cũng ngồi trên một tảng đá ta cười ha hả: “Đúng là thiếu nữ mười tám lắm đổi thay, năm nay nó đã mười bốn. định tháng sau sẽ đến công phường dệt Toái Hiệp làm việc. ”
“Sao? Cả công phường cũng đã tìm trước rồi à?”
“Mấy hôm trước có quan viên phía Toái Hiệp đến tìm công nhân, mười mấy công phường đều tuyển người, cháu gái ta đã tự chọn vào làm việc tại công phường dệt.”
Việc này Lý Khánh An không biết, ngày thường hắn cũng chẳng hỏi han gì. giờ nghe thế không khỏi quan tâm: “Vậy có nói một thắng bao nhiêu tiền công không?”
Ngụy lão trượng rút một bộ văn thư trong lòng ra đưa cho Lý Khánh An. “Đây là khế ước. cháu gái ta sẽ đến công phường dệt Toái Hiệp làm việc hai năm. Trương huyện lệnh của bọn ta đã làm người bảo đảm giúp.”
Khế ước này cũng tựa hợp đồng lao động đời sau. nhưng đây không phải là do Lý Khánh An nghĩ ra. Thông thường các công phường ở Trung Nguyên mà tuyển người làm đều sẽ ký khế ước trước, giấy trắng mực đen ghi rõ là tiền công và chỗ ăn ở, thường sẽ ký ba năm. có thêm địa bảo làm trung gian, ba phương cùng ký tên đóng dấu chỉ tay.
chỉ có điều công phường Toái Hiệp đều do quan phủ tổ chức, nên thống nhất để Tượng tác thự quản lý, khế ước cũng có mẫu tiêu chuẩn do Lý Khánh An đích thân tham gia soạn thảo, hắn biết rất rõ. nhưng Lưu Yến lại lần đầu tiên nhìn thấy khế ước này, hắn không khỏi hiếu kỳ thò đầu sang nhìn.
Lý Khánh An khoe khoan chỉ vào tiền công trên khế ước cười nói: “Ngươi nhìn thấy chưa? Tiền công mỗi tháng là mười tiền bạc, mỗi tuần được nghỉ một ngày, ăn ở miễn phí. nếu so với công phường ở Trường An thì thế nào?”
Lưu Yến cười mếu: “Theo ta được biết, những người giúp việc làm được việc nhất tại chợ Tây mỗi ngày đều phải dậy sớm thức khuya, không từ vất vả và cũng không được nghỉ ngơi. nhiều nhất mỗi ngày hai trăm tiền, một tháng sáu quan tiền. tiểu nương như cô nương này nhiều nhất được ba quan tiền công, mười đồng tiền bạc giá chợ đen cũng gần bằng mười ba quan tiền, cả ta còn chưa được bổng lộc cao như thế!”
Lý Khánh An mỉm cười nói: “Đó là tất nhiên, ngươi có biết là ở Toái Hiệp muốn tuyển công nhân khó khăn nhường nào, nếu không trả giá cao thì ai thèm đến? Đừng nói công nhân, cả nha hoàn nhà ta. mỗi tháng tiền công cũng đã là mười lăm đồng tiền bạc. một tháng nghỉ bốn ngày, mà ta còn phải tự móc hầu bao để trả.”
Lưu Yến lại than vãn: “Tiền công cao nhất Đại Đường, giá lương thực lại thấp nhất Đại Đường, trước khi đến đây có người khuyên ta là An Tây chỉ là vùng đất hoang sơ, đúng là ăn nói xàm hồ!”
Ngụy lão trượng cũng chen miệng nói: “Kỳ thực ta không muốn để cháu gái đi Toái Hiệp, bản thân ta đã trồng hai mươi mẫu nương dâu và mười mẫu vườn trà. nương dâu năm sau sẽ bắt đầu có lá. có thể bắt đầu nuôi tằm. trong nhà cũng cần người, nhưng cháu gái ta lại thích sự phồn vinh và náo nhiệt của Toái Hiệp, không còn cách nào nên đành để nó đi. Ôi! Ta thật không yên tâm chút nào!”
“Xin lão trượng có yên tâm. cháu gái lão có gì khó khăn có thể đến tìm ta. ta không có ở nhà. tìm thê tử ta cũng được.”
Hắn đưa một tấm danh thiếp cho thiếu nữ. nàng vừa nhận danh thiếp vừa mặt đỏ bừng nói: “Đại tướng quân, hay là tiểu nữ đến phủ tướng quân làm nha hoàn?”
Lý Khánh An hơi ngỡ ngàng, một chốc sau hắn ha hả cười to, giơ cao khế ước lên nói: “Thế không được, ta dám cướp người của công phường làm nha hoàn, bị lão Vương biết được, chắc dán giấy khắp thành mắng chết ta.”
Lúc này, từ xa có vài con ngựa phóng đến trước mặt hắn. vài quan viên xuống ngựa, tay vừa vén áo bào vừa chạy đến. Ngụy lão trượng nhận ra vị quan viên trẻ đi phía trước, cười nói: “Đại tướng quân. Trương huyện lệnh của bọn ta đã đến.”
Lý Khánh An cũng nhận ra vị huyện lệnh trẻ tuổi này chính là Trương Chí Hòa cháu của Lý Bí.
Chàng trai này nửa năm trước từng viết một bài thơ, từ Toái Hiệp truyền đến Trường An. chấn động một thời.
“Tây tái sơn tiền bạch lộ phi. đào hoa lưu thủy quyết ngư phi. thanh nhược lạp, lục thoa y, tà phong tế vũ bất tu quy.”
(*Trước non Tây Tái nhộn cò bay, nước chảy hoa đào mập cá rô, nón lá mảnh, áo tơi phờ, mưa phùn gió rít vẫn làm ngơ. - Nguyễn Chi Viễn dịch)
Cái hắn miêu tả chính là cảnh sắc Giang Nam vùng tái ngoại.
Trương Chí Hòa vội vàng đi lên trên, khom mình hành lễ nói: “Ty chức tham kiến Đại tướng quân!”
Trương Chí Hòa là năm ngoái tới An Tây, trước giờ vẫn tham dự việc di dời dân Hán. trong khảo bình về sự vụ thực tế có được sự bình phẩm rất tốt. lại đoạt được hạng hai trong kỳ thi quan viên của năm đầu. vì vậy Lại Tào Tư trong lúc định chức vụ đã phá vỡ lệ thường người mới thường phải làm từ Chủ bộ (*viên quan phụ giúp việc văn thư) đi lên. trực tiếp nhậm mệnh hắn làm huyện lệnh nhiệm kỳ đầu tiên của Sở Hà huyện, hắn đảm nhận huyện lệnh đã gần nửa năm. tuy trẻ tuổi, có chút thiếu thốn kinh nghiệm. nhưng hắn lại bỏ ra sự nổ lực cực lớn. thành tích làm ra cũng là tận mắt chứng kiến, trong khảo hạch của Giám sát Thái phông sứ (*cai quản việc kiểm tra hình ngục và kiểm tra quan lại châu huyện) đối với hắn. dân vọng của hắn có điểm cao nhất, nhắc đến Sở Hà huyện Huyện lệnh, không ai không khen ngợi hắn. cũng chính vì như vậy, Lý Khánh An không hề vì hắn là cháu ngoại của Lý Bí mà nhìn hắn mà hạ thấp một bậc. mà là trông việc mà bàn việc, thừa nhận chính tích của hắn.
Lý Khánh An chắp tay đáp lễ cười nói: “Bọn ta chỉ là đi ngang Sở Hà huyện, quấy rầy Trương Huyện lệnh rồi.”
“Đâu có, đại tướng quân đi ngang Sở Hà huyện, ty chức đương nhiên phải đến gặp.”
Trương Chí Hòa nói xong. ánh mắt liếc đám người lão Ngụy một cái. có vẻ có chút hồi hộp, hắn dù sao cũng là Huyện lệnh, quan phụ mẫu một huyện, dân huyện bên dưới ở trước mặt An Tây Tiết độ sứ nói mình ra sao, hắn ít nhiều cũng có chút lo âu. đây cũng là lẽ nhân tình bình thường; Lý Khánh An nhìn ra sự lo lắng của hắn. bèn vỗ vỗ vai hắn cười nói: “Thanh danh của ngươi rất tốt. ta dọc đường qua đây, nhìn thấy không ít người, đều khen ngợi ngươi một lòng vì dân. Hãy làm thật tốt đi! Ngươi chỉ cần liên tục ba năm khảo bình loại tốt. ta sẽ thẳng chức ngươi làm Châu thái thú. để ngươi trở thành châu quan trẻ tuổi nhất của Đại Đường. ở nơi này của ta không có xem thâm niên mà xếp vai vế. chỉ xem tài năng của ngươi.”
Trương Chí Hòa mừng rỡ, hắn gập người thi lễ nói: “Đa tạ đại tướng quân tín nhiệm, ty chức sẽ tận tâm tận lực, nhất định sẽ làm điều trông mong của Đại tướng quân trở thành sự thật.”
“Nào! Ngồi xuống nói chuyện.”
Lý Khánh An bảo Trương Chí Hòa ngồi xuống, cười nói: “Hãy nói một chút nỗi khó khăn ngày thường của ngươi, đúng lúc ta ở nơi đây, nói không chừng bọn ta có thể hiệp thương giải quyết vấn đề.”
Mấy người nông dân bọn lão Ngụy vội vã muốn đi xa. Lý Khánh An gọi bọn họ lại: “Mọi người cùng nhau nghe xem. các ngươi đều là người thực tế, nói không chừng có biện pháp còn tốt hơn cả ta.”
Trương Chí Hòa khá hồi hộp, ở một mức độ nào đó5 đây kỳ thực chính là một kỳ thi của Lý Khánh An dành cho hắn. còn để cho dân chúng bản địa bên cạnh lắng nghe, đây làm cho mức độ khó của hắn càng lớn hơn nữa. hắn trầm ngâm chốc lát. bèn nói: “Ty chức quả thật là có một suy nghĩ, nói cho đại tướng quân tham khảo.”
“Ngươi nói!”
Trương Chí Hòa nhìn lão nông bên cạnh một cái, nói: “Ty chức cho rằng thuế má của dân chúng An Tây có chút thấp hơn mức thường, không có lợi cho phát triển lâu dài.”
Mấy nông dân nhìn nhau, huyện lão gia của họ lại chê thuế má quá thấp, đây làm sao có thể được, lão Ngụy muốn mở miệng phản đối. nhưng thấy Lý Khánh An nét mặt nghiêm túc, chỉ đành mang lời nói phản đối nuốt vào lại trong bụng.
Lý Khánh An cũng không ngờ hắn lại cho rằng thuế má quá thấp, bèn hiếu kỳ hỏi: “Vậy ngươi nói xem. đây là vì nguyên cớ gì?”
“Đại tướng quân, tuy An Tây sản xuất nhiều vàng bạc, lương thực cũng có thể từ nơi khác lấy được, không cần thuế tô mà dân chúng nộp vào, nhưng nếu như vậy, dân chúng thiếu đi áp lực, người sẽ từ từ trở nên rảnh rỗi lười nhác, nhất là người trồng ruộng. dù sao thì thuế tô rất thấp, lương thực cũng rất rẻ. bọn họ sẽ không cần cực khồ trồng lương thực nữa. rảnh rỗi thì vào thành làm công lẻ. tiền công cũng không ít. rồi mua chút lương thực nộp thuế tô, còn về ruộng lương có thể thu bao nhiêu lương thực, cũng không quan trọng. vốn dĩ hoàn toàn có thể một mẫu sản xuất năm trăm cân. nhưng cuối cùng chỉ sản xuất ba trăm cân. nếu cứ mãi như thế. sự phiền nhiêu của đất đai trở nên xấu đi không nói. người cũng trở nên lười biếng, tục ngữ có câu sống yên ổn nghĩ đến ngày gian nguy, nhưng bây giờ là sống yên ổn nghĩ đến ngày an nhàn, đại tướng quân, ty chức cho rằng việc này tuy nhỏ, nhưng nếu không kịp thời khống chế sớm. sớm muộn gì cũng sẽ tích lũy thành ra hậu hoạn.”
Lý Khánh An chìm đắm vào trầm tư. lúc này lão Ngụy cuối cùng đã không nhịn được nói: “Đại tướng quân, tiểu dân cũng có lời muốn nói.”
“ngươi nói đi!”
Lão Ngụy thi một lễ với Trương Chí Hòa trước, rồi mới nói: “Trương huyện lệnh nói là vì thuế tô thấp làm cho người ta trở nên lười, không chịu trồng ruộng; tiểu dân không cho rằng như vậy, cứ lấy bản thân tiểu dân nói vậy, tiểu dân cả nhà chiu được ruộng đất một trăm năm mươi mẫu. hai năm nay lại khai khẩn thêm hơn hai trăm mẫu ruộng hoang, vì quan phù có quy định, khai hoang trồng ruộng mười năm. ruộng đất có thể thuộc về mình, vì vậy tiểu dân và con trai lớn của tiểu dân cày sâu cuốc bẫm. chưa từng có một ngày lười biếng, để nâng cao sản lượng lương thực, tiểu dân còn lắp đặt xe nước, đúng vậy, thuế tô rất thấp, nhưng đây tuyệt không phải là lý do lười biếng của bọn tiểu dân. vì mọi người đã nếm trải đủ nỗi khổ không có ruộng đất rồi. vì đất đai là của bọn tiểu dân. vì vậy tiểu dân mới nghĩ rằng hãy làm nó tốt nhất, có lẽ cũng có loại người như Trương huyện lệnh nói vậy, nhưng tiểu dân tin rằng đó là số ít. tuyệt đại đa số người đều sẽ không trở nên lười.”
“Lão trượng nói ngược rồi, người giống lão đây cần mẫn trồng trọt là số ít. tuyệt đại đa số người đều là tìm mọi kẽ hở đi kiếm tiền, vì trồng lương thực cơ bản là không kiếm ra tiền, ai lại chịu lãng phí thời gian và tinh lực vào việc trồng lương thực.”
Trương Chí Hòa từ trong túi đồ tùy thân lấy ra một quyển sổ, lật ra hai trang nói với Lý Khánh An: “Đại tướng quân, chỗ này của ty chức có sự thống kê của năm nay, năm ngoái Sở Hà huyện mỗi hộ khai khẩn đất hoang khoảng tám mươi mẫu. mà mười tháng đầu của năm nay mỗi hộ khai khẩn đất hoang bình quân chỉ có năm mẫu. gần như là không có đất đai khai khẩn mới, tại sao, vì đa số người trẻ tuổi đều chạy vào thành làm công rồi. hoặc là trồng trà trồng dâu. chỉ là không ai chịu trồng lương thực nữa. nếu tiếp tục như vậy mãi. qua vài năm nữa. e là An Tây sẽ không có lương thực của riêng mình nữa.”
Lý Khánh An bây giờ mới nghe ra một chút vấn đề cốt lõi, tên Trương Chí Hòa bề mặt thì đang nói thuế tô khá thấp, thực tế là đang công kích An Tây trọng công thương mà khinh nông. lúc này, Lưu Yến bên cạnh cũng cười nói: “Đại tướng quân. Trương huyện lệnh làm người ta cảm thấy tuy trẻ tuổi, nhưng kiến thức lại rất già dặn. thuộc hạ tán đồng suy nghĩ của ngài ấy, nếu đại tướng quân chịu nghe, thuộc hạ có thể kể một câu chuyện.”
“Hai người các ngươi. một người gõ hông, một người thọc sườn. Nói đi! Ta nghe đây.”
Lưu Yến cười xòa. bèn chậm rãi nói: “Ngày xưa Quản Trọng cưỡng bức dân chúng nước Tề trồng lương thực, đồng thời mua vào tơ lụa nước lân bang với giá cao, rồi bán lương thực cho nước lân bang với giá thấp, kết quả người nước lân bang thấy có lợi ích có thể mưu cầu. trồng lương không có ích. bèn đồng loạt hủy ruộng trồng dâu. nuôi tằm dệt lụa. từ đó nước Tề kiếm được số tiền rất lớn. sau đó Quản Trọng thấy thời cơ đã đến. bèn đột nhiên hét giá lương cao tận trời bán cho nước lân bang, đồng thời nghiêm cấm nhập khẩu tơ lụa. nước lân bang đã xảy ra nạn đói, không thể tiếp tục được nữa. đành phải giơ tay đầu hàng với nước Tề. tiền kiếm được của mấy năm đó, lại quay trở về trong quốc khố nước Tề.”
Trương Chí Hòa gật đầu nói: “Đại tướng quân, ta chính là có ý này, lương thực bây giờ là từ Sindh đưa tới, một khi chúng ta quen dựa dẫm lương thực của Sindh. ai cũng đều đi làm công kiếm tiền, hoặc là hủy ruộng trồng dâu. nếu như sau mấy năm Sindh không còn lương thực đưa tới nữa. lúc đó An Tây sẽ xảy ra nạn thiếu lương rồi.”
Dân dĩ thực vi thiên, đạo Lý này Lý Khánh An dĩ nhiên hiểu, bèn nói: “Ta hiểu ý của các ngươi, nhưng người trẻ tuổi quả thật là muốn đi làm công kiếm tiền, công phường đã mở rồi cũng không thể nào đóng cửa. vậy các ngươi nói nên làm thế nào?”
Lưu Yến cười nói: “Kỳ thật biện pháp rất đơn giản, chính là nâng cao giá lương trên thị trường An Tây. hoặc là người trồng lương cho trợ cấp. phải để thu nhập của trồng lương không thấp hơn công phường, như vậy, hàng hóa của công phường bán đi Đại Thực hoặc Byzantium kiếm nhiều tiền, mang tiền kiếm được lấy một phần trợ cấp người trồng lương. đừng chê lương thực nhiều, lương thực mãi là vật tư chiến lược, chúng ta chỉ phải lo xây thêm kho hàng, đợi Đại Thực xảy ra nạn thiếu lương, chúng ta hãy cao giá bán cho bọn họ.”
“Chờ một chút!”
Nét mặt của Lý Khánh An trở nên vô cùng chấn động, vội nói: “Ngươi lúc nãy nói gì. lặp lại lần nữa xem nào.”
“Thuộc hạ nói là lương thực mãi là vật tư chiến lược, chúng ta chỉ phải lo xây thêm nhiều kho hàng.”
“Không phải câu này, là câu sau.”
“Câu sau?”
Lưu Yến nghĩ ngợi, nói: “Đợi Đại Thực xảy ra nạn thiếu lương, chúng ta hãy bán cho họ với giá cao.”
Chính là câu nói này, trong đầu Lý Khánh An như lửa xẹt điện chớp nảy ra một ý niệm, người Đại Thực mấy chục năm đều là dựa vào lương thực của Sindh. bây giờ kho lương lớn của Sindh bị mình chiếm lĩnh, vậy Đại Thực có xảy ra nạn đói không?
Tuy rằng vùng châu thổ sông Nil cũng là vùng đất phì nhiêu, nhưng theo Bùi Du nói, ở đó chủ yếu là trồng bông, mà không phải là lương thực, mấu chốt là hai lưu vực sông, nhiều năm có được một lượng lớn lương thực của Sindh. vậy thì hiện nay còn có bao nhiêu người chịu trồng lương.
Nghĩ vậy, Lý Khánh An bỗng nhiên ý thức được, nếu Đại Thực thật sự đã xảy ra nguy cơ lương thực, như vậy người Đại Thực sẽ không kéo dài tới nữa năm sau rồi mới khai chiến, có lẽ chiến tranh sẽ đến sớm hơn.
Ý thức được điểm này, Lý Khánh An phát hiện mình phạm phải sai lầm của một chủ nghĩa kinh nghiệm, cứ chiếu theo lẽ thường mà phán đoán thời gian bị chiến của Đại Thực, nếu như Đại Thực có tình hình đặc biệt xảy ra, như nguy cơ lương thực, vậy thì bọn họ chắc chắn sẽ lập tức phát động chiến tranh để giải quyết.
Trong lòng hắn trở nên có chút sốt ruột, bèn nói với Lưu Yến: “Thượng du Sở Hà một đi một về phải mất nửa tháng. sẽ làm lỡ chính sự. ta sẽ không đi nữa. Lưu thự lệnh có thể thay ta đi thị sát. ta sẽ toàn quyền ủy thác cho ngươi vậy.”
“Đại tướng phải về Toái Hiệp sao?”
“Không! Ta đi Thác Chi thành một chuyến.”
Từ Toái Hiệp hướng tây, đi qua A Sử Bất Lai thành. Câu Lan thành, bèn có thể đến được vào địa phận Thạch Quốc, rồi chuyền đường sang nam. sáu ngày sau, Lý Khánh An dẫn quân đi tới Thạch Quốc đô thành Thác Chi thành.
Theo kết quả cuộc chiến Đát La Tư, địa vị của Thạch Quốc không giống như Hà Trung chư quốc, Thạch Quốc thuộc hiệp tòng quốc của quân Đường, vì vậy nó không giống như chư quốc Hà Trung khác trở thành vùng đất chiếm lĩnh của quân Đường, nó ít nhiều có chút quyền tự trị.
Quốc vương vẫn là Cáp Tang, quyền hành chính của Thạch Vương vẫn thuộc hắn chấp quán, nhưng quân quyền đã không còn nữa, Thạch Quốc chỉ bảo lưu lại năm nghìn quân đội, lúc này gần ba vạn đại quân bình thường dùng đế duy trì trị an, mà trú đóng Thạch Quốc thì quy về Đại Uyên đô đốc chấp chưởng, trong đó sáu nghìn người trú đóng Đát La Tư. hai nghìn người trú đóng Bạch Thủy thành, hai vạn người đóng quân ở Thác Chi thành.
Đại Uyên đô đốc đương nhiệm là đại tướng Điền Trân, đô đốc Lý Tự Nghiệp trước kia trong lúc Lý Khánh An công đánh Sindh. đã bị điều đi Hà Trung, xuất nhiệm Hà Trung quân Đô binh mã sứ.
Thác Chi thành một vùng thảo nguyên rộng lớn. sản xuất nhiều ngựa tốt Đại Uyên, là căn cứ quan trọng quân Đường huấn luyện quân mới, sau khi ở nơi đây tiếp nhận sự huấn luyện kỵ binh cuối cùng thời hạn bảy tháng, tân binh bèn chính thức bắt đầu phục dịch, phản phối đến binh mã sứ các nơi. mà đợt binh sĩ mới lại bị đưa tới. cứ luân phiên như vậy, bao giờ cũng duy trì ở mức quy mô hai vạn người.
Lý Khánh An đến Thác Chi thành không phải để thị sát tân binh, mà là để thị sát binh khí thự của Thác Chi thành. Thác Chi thành cũng là một trong những căn cứ chế tạo vũ khí quan trọng nhất của quân Đường, nhất là cơ khí công thành loại lớn. các vũ khí hạng nặng như thang mây. chùy công thành, chiến xa. máy ném đá. máy nỏ v.v... đều ở đây nghiên chế sản xuất hàng loạt, chủ yếu là cây cối ở phụ cận Thác Chi thành vô cùng cứng rắn. thích hợp chế tạo vũ ký hạng nặng, mà công tượng lành nghề của Thạch Quốc cũng khá nhiều, có đủ nguồn nhân lực tài nguyên.
Thác Chi thành ngoài xa ngót hai mươi dặm. còn có một nơi thí nghiệm vũ khí bí mật. bèn là căn cứ thí nghiệm hỏa dược của quân Đường, nằm ở trong một sơn cốc, nơi đây giới bị nghiêm ngặt, có hai nghìn lính gác. bất kỳ ai cũng không được đi vào, tuyệt đại đa số người Thạch Quốc không biết nơi này đang làm gì. thậm chí cả quốc vương Cáp Tang cũng không biết đó chính là căn cứ chế tạo thiên lôi của quân Đường.
Vào lúc chạng vạng. Lý Khánh An dưới sự bảo hộ của mấy trăm viên thân binh, đi tới thiên lôi cốc, đây là một tòa sơn cốc khổng lồ, phảng phất một quả núi to bị chặt ra làm đôi. kỳ thực nơi đây là lòng chảo sông Đại Uyên Hà. Đại Uyên Hà sau khi sửa tuyến, nơi này bèn từ từ khô cạn. hình thành một chiếc cốc hẹp, dài khoảng mười mấy dặm. chỗ rộng nhất năm dặm. chỗ hẹp nhất chẳng qua mười mấy trượng, hai bên núi cao vách dựng, mọc đầy thảm thực vật dày đặc, trong sơn cốc rất khô ráo, thích hợp tàng trữ hỏa dược.
Sơn cốc đã trở thành cấm địa. người có thể vào tòa sơn cốc này, không quá hai trăm, lưu huỳnh vận chuyển từ núi Thiên Tuyền, saltpeter (*nitrat kali) vận chuyển từ Bạt Hãn Na Quốc, bèn là ở đây phối hợp thành vũ khí lợi hại nhất Đại Đường: hỏa dược.
Lý Khánh An dẫn hai mươi thân binh đi vào sơn cốc, thủ lĩnh quan quân của sơn cốc cũng từng là thân binh của Lý Khánh An. tên gọi là Trịnh Quốc Lương, năm xưa ở đảo Long Câu. hắn chính là phụ trách chế tạo pháo lớn. bây giờ hắn là người phụ trách toàn bộ sản xuất hỏa dược, được phong làm Lang tướng, sau chiến dịch Đát La Tư bèn vẫn sinh sống ở đây, đã trải qua gần bốn năm rồi.
“Mạt tướng tham kiến Đại tướng quân!” Trịnh Quốc Lương quì một gối, thi lễ với Lý Khánh An.
Lý Khánh An vội vàng nâng hắn dậy cười nói: “Không cần giữ lễ tiết như vậy, đứng lên đi!”
“Bẩm báo Đại tướng quân, hai tháng trước nhận được mệnh lệnh của Đại tướng quân, ty chức đang soái lĩnh các huynh đệ đẩy nhanh tiến độ chế tạo hỏa khí. xin Đại tướng quân thị sát.”
Lý Khánh An gật gật đầu. vừa đi vừa hỏi hắn: “Nghe nói chấn thiên lôi đã làm ra rồi. có thể tin được không?”
Chấn thiên lôi chính là bao hỏa dược vỏ bọc sắt. làm một loại có uy lực lớn nhất trong số vũ khí hóa dược nguyên thủy, thời triều Tống phát minh, lúc uy lực lớn nhất có thể làm rung sập cả tường thành, người và đá đều thành bột vụn, đây chính là vật mà Lý Khánh An một mực muốn chế tạo ra. hắn chỉ là có một khái niệm, mọi thứ đều phải dựa vào công tượng không ngừng tìm tòi thí nghiệm, mấy tháng trước. Trịnh Quốc Lương viết thư đến báo cáo, Chấn thiên lôi đã chế tạo ra rồi.
nhưng điều Lý Khánh An quan tâm chính là tính ổn định, vũ khí cực mạnh này nếu không ồn định, phát nổ ngay trong quân mình, hậu quả thật không thể tưởng tượng, vì vậy rất nhiều lúc. hắn thà không dùng hỏa dược, cũng phải bảo đảm ổn định.
Trịnh Quốc Lương cười nói: “Đại tướng quân yên tâm. bọn thuộc hạ đã thí nghiệm hơn trăm lần. rất ổn định rồi. hiện tại đã làm ra năm mươi mấy cái. ty chức dẫn Đại tướng quân đi xem.”
Hắn dẫn Lý Khánh An đi vào sơn cốc. bên trong sơn cốc có mấy tòa vật kiến trúc màu trắng, nơi đó chính là ký túc xá của các công tượng và kho trữ nguyên liệu, còn công phường chế thuốc thì ở trong sơn động, sơn cốc hai bên phân bố rải ra hai mươi mấy huyệt động lớn nhỏ, đều là đá hoa cương, khô ráo mà rắn chắc, trở thành một nơi tự nhiên dùng để tàng trữ thuốc nô và các loại tác phường của bọn họ.
Lý Khánh An theo hắn đi vào một sơn động khổng lồ, cao tầm mười mấy trượng, sâu đến mấy dặm. cửa sơn động đặt một dãy bàn dài dài. mười mấy công tượng đang chế tác hỏa dược tiễn. Trịnh Quốc Lương nhặt một hỏa dược tiền giới thiệu với Lý Khánh An nói: “Bản thân của loại tên này là đại tiễn do máy nỏ phát xạ. trên thân tên cột một chiếc ống hỏa dược, hỏa dược sau khi đốt cháy sẽ gia tăng lực đây. làm cho đại tiền phát ra có thể đi xa hơn. chúng thuộc hạ đã làm thí nghiệm qua. tầm bắn có thể đạt tới hai dặm.”
Lý Khánh An rất có hứng thú với loại hỏa dược tiền này, hắn nhặt một mũi tên nhỏ hơn. quay đầu nói: “Lấy cung ta đến đây!”
Thân binh lập tức mang cây hắc long cung của hắn đưa cho hắn. Lý Khánh An đã thu thập mười mấy chiếc cung tốt. còn chiếc cung này là chiến cung của hắn. theo hắn tác chiến, cũng là cung cứng thất thạch, do đệ nhất cung tượng An Tây mất thời gian hai năm mới làm thành, cả cây cung đen láy như sơn. khi dùng cực kỳ thuận tay.
Lý Khánh An sải bước lớn ra ngoài động. đáp hoàn dược tiễn lên cây cung, từ từ kéo cung thành hình trăng tròn, nhắm chuẩn vào phía tận cùng của sơn cốc, bên kia bèn là bãi thí nghiệm, tạm thời không có người, thân tên rất dài, đủ để bảo đảm sau khi kéo căng cây cung hỏa dược vẫn còn ở ngoài cung. lúc này, một công tượng cẩn thận dùng chiếc châm lửa châm kíp nổ, kíp nổ đốt cháy vô cùng đều đặn. đợi đến lúc đốt đến một nửa. mũi tên thoát khỏi dây cung mà bắn ra. vẽ ra một đường cong đẹp mắt. trực tiếp bắn đến nơi xa rộng rãi. bắn ra khoảng chừng một trăm năm mươi bước, tên đột nhiên tăng tốc lên. bốc lên khói trắng nồng đậm. tên đã biết mất không thấy nữa. lát sau. một viên binh sĩ lấy mũi tên chạy về kêu lên: “Đại tướng quân, bắn ra bốn trăm năm mươi bước.”
Một mũi tên nhưng lại bắn ra bốn trăm năm mươi bước, làm cho Lý Khánh An không khỏi suýt xoa không thôi, Trịnh Quốc Lương có chút đắc ý cười nói: “Hỏa dược tiễn kỳ thật có hai loại, một loại là gia tốc. một loại là dùng chữ thập cố định một chiếc bao hỏa dược loại nhỏ, trong bao chứa đinh sắt nhỏ đã tẩm độc, dùng để đối phó chiến mã của đối phương, rất có công hiệu, chỉ là loại hỏa dược tiền này thôi chúng thuộc hạ đã nghiên chế gần một năm.”
“vì sao?” Lý Khánh An có chút không hiểu.
“Kỳ thật không phải là bản thân hỏa dược tiễn này. chủ yếu là hỏa dược, đại tướng quân có phát hiện không, loại hỏa dược này với hỏa dược đảo Long Câu trước đây có gì khác biệt không?”
Lý Khánh An nghĩ ngợi rồi nói: “Hình như đốt cháy vô cùng nhanh đều, hình như có thể dùng kíp nổ khống chế thời gian.”
“Đại tướng quân nói thật không sai chút nào, bọn thuộc hạ đã dùng thời gian một năm nghiên cứu nếu nghiền mài hỏa dược thành viên tròn, cuối cùng dùng lòng trắng trứng và lưu huỳnh để ngưng đọng hỏa dược, kích thước lớn nhỏ của viên hỏa dược vô cùng đều đặn. viên dược khi làm xong còn phải dùng đá graphite mài nhẵn, như vậy thì sẽ chống ẩm hơn. viên dược to nhỏ đều đặn thì có thể khống chế tốc độ đốt cháy, bọn thuộc hạ còn suy nghĩ chế tạo một loại bàn kíp nổ, để cho hỏa dược từ từ đốt cháy, sau một khắc giờ mới phát nổ. như vậy quân địch càng khó lòng phòng bị.”
“Không tồi! Rất không tồi!”
Lý Khánh An tán thưởng hai tiếng, lại hỏi: “Chấn thiên lôi đâu?”
“Đại tướng quân mời đi theo ty chức.”
Trịnh Quốc Lương dẫn theo Lý Khánh An đi vào trong chỗ sâu hang động. chỗ này ánh sáng đã khá mờ, nhưng có mờ đến đâu cũng tuyệt không thể đốt đuốc, lúc này Lý Khánh An mới phát hiện, hai bên có không ít huyệt động, bên trong hình như có đặt thứ gì đó.
“Huyệt động này vừa râm mát lại khô ráo, vô cùng thích hợp tồn trữ hỏa dược.”
Hắn từ trong một huyệt động lôi ra một chiếc rương gỗ, khoảng một thước vuông (*bình phương), hắn cạy nắp ra. bên trong lờ mờ là một thứ đen ngòm, hình tròn dẹp, rất giống ấm nước nóng làm bằng đồng.
“Đại tướng quân mời xem. đây chính là chấn thiên lôi! Bắt buộc phải dùng máy ném đá cỡ to phát xạ.”
Lý Khánh An nhặt thứ đồ thiết nặng khoảng hai mươi mấy cân hình tròn dẹp này lên. vỗ vỗ vào cái bụng của nó, hiếu kỳ cười hỏi: “Uy lực của nó như thế nào?”
“Bọn thuộc hạ đã dùng cự thạch xây nên một thú bảo cao ba trượng, khi chấn thiên lôi ở bên trong phát nổ. tiếng nổ truyền ra ngoài mười dặm. đem cả tòa thú bảo đều nổ san bằng hết.”