Thảo nguyên mênh mang luôn thưa thớt ít người, cho dù có thôn trấn thì trên cơ bản cũng không mấy ai biết chữ, càng có rất ít đại phu chuyên nghiệp. Bởi vậy, tăng lữ khắp nơi đều có nhiều người nghiên cứu y thuật, để dễ dàng giúp đỡ bách tính địa phương. Đại Lạt Ma vì thế còn là danh y số một số hai Bắc Kế, chuyên tâm phối chế rất nhiều bí dược, đối với việc chữa bệnh rất hiệu quả.
Một tháng sau khi cả bọn về đến Bắc Kế, biên cảnh tây bắc truyền tin về báo rằng Đại Lạt Ma rốt cục được khoái mã hoàng gia tìm được, đang trở về Kế đô.
Lúc này đã là hai ngày sau hôm Ninh Giác Phi và Vân Thâm hoan hảo, bệnh tình của hắn vẫn dậm chân tại chỗ, chỉ là càng lúc càng ổn định hơn, không biến nặng thêm, khiến Vân Thâm cũng yên tâm đôi chút.
Một ngày kích tình như thế đi qua, Ninh Giác Phi chỉ cảm thấy toàn thân nặng như thiên quân, đừng nói tới cử động, ngay cả sức để cười cũng không có, chỉ có thể nhắm mắt ngủ mà thôi.
Vân Thâm dùng chăn bao lấy hắn, phân phó gia nhân đưa nước nóng tới, thả hắn vào trong nước, sau đó tựa như lúc còn trong trướng bồng giữa thảo nguyên, hắn thanh lý cho y, bây giờ, y thanh lý cho hắn.
Vân Thâm cứ mãi lo lắng bản thân không tiết chế sẽ làm bệnh tình Ninh Giác Phi nặng thêm, ai biết ngủ qua một đêm, ngày thứ hai, tinh thần hắn đã khá hơn trước, còn cười nói: “Ta đã nói là chuyện kia … có thể chữa bệnh mà.”
Vân Thâm biết tính hắn rộng rãi hào hiệp, khinh rẻ sinh tử, trọng tình nghĩa nên lúc này cũng không cãi lại gì, chỉ thân thiết nhéo tai hắn. Y nghĩ đến thể nghiệm cực lạc tối qua rồi không khống chế được ôm chặt lấy hắn.
Lúc tiểu đội kỵ binh được phái đi mời Đại Lạt Ma cho khoái mã trở về cung báo tin tốt, Vân Thâm mới thở dài được một hơi, Đạm Thai Mục cũng yên lòng.
Từ khi trở lại Kế đô, Ninh Giác Phi vẫn bệnh, bệnh càng lúc càng nặng, không chỉ Vân Thâm đứng ngồi không yên mà ngay cả Đạm Thai Mục cũng là tâm thần không yên, hầu như mỗi ngày đều phải đến thăm hắn, nói với hắn mấy câu mới chịu đi. Trên trán Đạm Thai Mục tràn đầy ưu tư, Ninh Giác Phi nghĩ có lẽ những gì Vân Thâm mang về từ Nam Sở khiến cho Đạm Thai Mục nhận ra một nguy cơ lớn đến tồn vong Bắc Kế. Dù nghĩ thế nhưng bản thân Ninh Giác Phi còn đang mang bệnh nên cũng bất lực, không làm gì được.
Khi Đại Lạt Ma mặc tăng bào màu chu sa theo Vân Thâm và Đạm Thai Mục đi vào, Ninh Giác Phi vẫn còn nằm dưới một táng đại thụ, nhìn trăm chim ca múa, nhàn nhã an tĩnh.
Đại Lạt Ma nhìn hắn, ông cũng chẳng khác gì lúc lần đầu gặp hắn, ánh mắt lấp lánh, mặt lộ vẻ kỳ lạ.
Vân Thâm ở một bên cung kính: “A Già đại sư, có cần để Ninh công tử trở về phòng rồi mới chẩn trị không?”
Vị Đại Lạt Ma này tên A Già Mai Lâm, là linh đồng chuyển thế của Đại Lạt Ma đời trước, hiện tại đã bảy mươi tuổi, hạc phát đồng nhan, bình thản đạm đạm. Trong ngày lễ đua ngựa long trọng, ông đã hướng tín nhân nói rõ, bản thân công đức đã viên mãn, vào ngày sinh thứ 80 sẽ quy thiên, việc này oanh động đến toàn bộ đại thảo nguyên, không chỉ Bắc Kế ai ai cũng biết mà ngay cả Tây Vũ cũng lan truyền tin khắp chốn. Đại Lạt Ma Tây Vũ cũng phái sứ giả đến tận Bắc Kế để chúc mừng ông, chúc ông đắc chứng đại đạo. Mà ông vẫn không khác ngày xưa, tiếp tục du hành trên thảo nguyên, giảng kinh thuyết pháp, trị bệnh cứu người.
Giờ này khắc này, ông đứng trước giường Ninh Giác Phi nhìn hắn, Ninh Giác Phi cũng bình tĩnh nhìn lại ông. Trong mắt Vân Thâm, hai người họ kém nhau 50 năm nhưng tia sáng trong mắt thì giống nhau y hệt.
Đạm Thai Mục trầm ổn như núi, lúc này không nói lời nào, chỉ đứng ở một bên mà nhìn.
Một lát sau, A Già ôn hòa nói: “Không cần, ở đây trời trong nắng ấm, hoa hương điểu ngữ, hoàn cảnh rất tốt, có thể bắt mạch.”
Vân Thâm lập tức phân phó tổng quản vẫn đang đứng lặng lẽ ở một bên mang ghế, bàn, trà thơm, hoa quả, điểm tâm, quây vòng bên Giác Phi.
A Già cầm lấy hai tay Giác Phi, tỉ mỉ bắt mạch rồi nhìn mí mắt, bựa lưỡi của hắn, sau đó lại ấn ấn vào toàn thân trên dưới của hắn, khám rất tỉ mỉ rồi mới ngồi xuống.
Vân Thâm lo lắng mà hỏi thăm: “A Già đại sư, bệnh Ninh công tử… thế nào?”
“Phong tà tận xương, nguyên khí đại thương, hàn khí triền ngũ tạng lục phủ, kỳ kinh bát mạch, tán nhập thần tủy, nhìn qua xác thực hung hiểm.” A Già trầm tư. “Là bệnh căn từ trong quá khứ sao? Sau khi bị thương công tử mất quá nhiều máu, áp chế không được nên giờ phát tác.”
Những bệnh tượng này Vân Thâm cũng biết một hai, nghe thế liền căng thẳng: “Thỉnh đại sư diệu thủ hồi xuân.”
“Quốc sư y thuật không kém, đương nhiên biết dưỡng tâm còn hơn dưỡng thân.” A Già đưa tay tiếp lấy một bông hoa rơi xuống bên người, nét mặt thản nhiên mỉm cười. “Không màng danh lợi hư vô, chân khí luân chuyển, chỉ cần tâm tính bình thản, chính khí tồn nội, liền chống đỡ được ngoại tà, khôi phục khoẻ mạnh.”
Đạo lý này Vân Thâm tự nhiên cũng hiểu nhưng không biết có liên quan gì đến bệnh tình Ninh Giác Phi, lại không dám vọng ngôn nghi vấn. Trước mặt Đại Lạt Ma ung dung thông thái, vị quốc sư trẻ tuổi thâm tàng bất lộ rốt cuộc vẫn thiếu kiên nhẫn, nhất thời lộ vẻ lo lắng.
Ninh Giác Phi nhìn đại sư thong dong mỉm cười lại nhìn Vân Thâm đang lo âu, khóe môi liền không tự chủ được mà cong thành một nụ cười, ánh mắt trong suốt lấp lánh.
A Già nhìn hắn, chậm rãi nói: “Công tử lòng dạ rộng rãi, tính cách khoan dung, bệnh căn mặc dù hiểm nhưng không đáng ngại, từ từ sẽ khỏi. Bệnh tình triền thân lúc này là do khúc mắc chưa tiêu.”
Vân Thâm vừa nghe, sắc mặt đại biến, quay đầu nhìn hắn: “Giác Phi, ngươi thực sự có khúc mắc chưa tiêu sao?”
Ninh Giác Phi có chút do dự nhưng vẫn nói: “Phải.”
“Vì sao không nói cho ta biết?” Mặt Vân Thâm lộ vẻ không vui rồi lại không tiện trách nặng, chỉ đành miễn cưỡng nhịn xuống.
Ninh Giác Phi bình thản đáp: “Bản thân ta còn chưa suy nghĩ cẩn thận, không biết phải nói ra như thế nào.”
Ánh mắt Vân Thâm rất phức tạp, muốn nói lại thôi rồi cuối cùng cũng cất lời: “Giác Phi, kỳ thực ngươi là ai, đã xảy ra chuyện gì, ta đều không quan tâm, ngươi cần gì phải để trong lòng?”
Ninh Giác Phi vừa nghe lời ấy tự nhiên hiểu y đã biết những gì mình gặp ở Lâm Truy, nghe y không để ý đến những chuyện đó, trong lòng cũng rất cảm động. Hắn mỉm cười, lắc đầu: “Vân Thâm, khúc mắc của ta không ở chỗ đó.”
“Vậy là cái gì?” Trong bất giác, Vân Thâm đã đến trước mặt hắn, nắm chặt lấy tay Giác Phi.
A Già nở nụ cười: “Quốc sư quan tâm nên mới loạn, nếu không sẽ không gấp gáp đến thế, ngài hãy để Ninh công tử nói tỉ mỉ mọi việc đã.”
Vân Thâm có chút xấu hổ, mặt đỏ lên.
Đạm Thai Mục ở một bên trầm ổn cười cười, đưa tay vỗ vỗ vai y, ý an ủi.
A Già nhìn Ninh Giác Phi, trong mắt chớp động một loại ánh sáng lạ lùng, chậm rãi hỏi: “Công tử chuyển thế mà đến?”
Ninh Giác Phi không giấu diếm, không do dự, gật đầu: “Phải.”
Vân Thâm và Đạm Thai Mục cả kinh, có chút khiếp sợ.
Thần thái của A Già càng lúc càng hiền từ: “Lẽ nào… công tử không phải đầu thai chuyển thế? Là nửa đường mà vào?”
“Phải.” Ninh Giác Phi lại gật đầu.
Vân Thâm và Đạm Thai Mục nhất thời sững sờ, trên mặt tràn thần sắc đầy khó tin.
“Công tử còn nhớ rõ kiếp trước?” A Già lại hỏi.
“Rõ ràng như trước mắt.” Ninh Giác Phi chậm rãi đáp. “Từ chết đến khi sống lại, ta đều thanh tỉnh cực kỳ, vừa mở mắt ra, đã đến thế giới này.”
A Già thở dài một hơi, tán thán: “Thì ra kiếp trước công tử tu hành đoạt xá đại pháp.”
“Cái gì?” Ninh Giác Phi không hiểu. “Cái gì pháp?”
Vân Thâm lập tức giải thích cho hắn: “Đoạt xá đại pháp là một loại tiên thuật trong truyền thuyết, thân thể vốn chỉ là phòng xá cho linh hồn, tu luyện pháp ấy có thể khiến sau khi chết đi linh hồn có thể tiếp nhận một thân thể thích hợp khác làm chỗ ở, cái đó gọi là ‘người bỏ, ta dùng’, một ngày linh hồn kia rời đi, liền có thể đoạt xá mà vào, còn gọi là đại pháp vô thượng trường sinh bất lão.”
A Già hứng thú gợi hỏi: “Chẳng lẽ, ở thế giới của Ninh công tử, thuật ấy không gọi là đoạt xá đại pháp mà gọi bằng tên khác?”
“Không phải.” Ninh Giác Phi hoang mang nói. “Kiếp trước ta chỉ là một quân nhân bình thường, chẳng tu luyện pháp thuật nào cả, ngay cả nghe cũng chưa từng nghe qua.”
Vừa nghe hắn từng là quân nhân, Đạm Thai Mục nhất thời tỉnh táo, hăng hái hỏi: “Giác Phi, ngươi có thể kể lại cuộc đời kiếp trước của ngươi không?”
Ninh Giác Phi thấy phản ứng của họ khác xa người Nam Sở, không khỏi buồn cười: “Các ngươi hình như rất dễ tiếp thu chuyện này, không hề giật mình.”
Vân Thâm cười nói: “Giác Phi, người chuyển thế trên thảo nguyên rất nhiều, A Già đại sư cũng là chuyển thế của Đại Lạt Ma trước đây, chúng ta luôn tin con người có thể luân hồi, muôn đời kéo dài không dứt. Thế nên, chúng ta mới muốn che chở cho thảo nguyên của chúng ta, miễn cho tương lai sau khi chuyển thế không thể sống yên ổn ở đây. Vì thế chúng ta không sợ chết đi, bởi vì linh hồn bất diệt, sẽ còn chuyển thế quay về.”
Ninh Giác Phi như bừng tỉnh, không còn do dự nữa, liền đem chuyện kiếp trước của hắn ra kể: “Kiếp trước của ta, thời gian nơi ấy cách ở đây ngàn năm sau… quá khứ của ta…rất ngắn… mười tám tuổi tòng quân, hai mươi bảy tuổi thành thiếu tướng. Quân đội ta suất lĩnh là một đội quân thép, ngang dọc vạn lý, bách chiến bách thắng. Sau đó… ta giết địch quá nhiều, địch nhân hận ta tận xương, dùng mọi biện pháp thu mua …. phó tướng của ta. Phó tướng đó bán đứng kế hoạch hành động của ta cho địch nhân, trọng binh mai phục, ta bị bao vây, ta huyết chiến một ngày một đêm, đạn tẫn lương tuyệt, không thể đột phá khỏi vòng vây, cuối cùng tự sát tuẫn quốc. Sau đó, linh hồn tiến nhập thân thể Ân Tiểu Lâu, vừa mở mắt ra, ta đã thấy Thuần Vu Càn…”
Vân Thâm nắm chặt tay hắn, thấp giọng nói: “Chuyện sau đó, ta đã biết, ngươi không cần nói nữa.”
Đạm Thai Mục cũng tiếp lời: “Thật không nghĩ tới, Giác Phi, thì ra kiếp trước của ngươi là đại tướng quân.”
“Phải, nhưng đó là thời đại hòa bình, bản đồ Trung Hoa nhất thống, thiên hạ đại trị, tứ hải thái bình, nhiệm vụ chủ yếu là của ta là bảo cảnh an dân mà không phải khai cương thác thổ.” Ninh Giác Phi mỉm cười thở dài. “Chỉ là thân là quân nhân, ta đã giết rất nhiều người, thế nên đời này mới nhận hết dằn vặt.”
Đạm Thai Mục nghe xong vài câu nói ấy cũng có chút xuất thần, trên mặt tràn đầy ước ao hướng tới: “Thực sự sao? Thật là giang sơn nhất thống? Thật là thiên hạ đại trị? Tứ hải thái bình? Đó là một thế giới như thế nào?”
Ninh Giác Phi hồi tưởng lại cố quốc kiếp trước của bản thân, nhẹ giọng đáp: “Có thể nói là thịnh thế.”
Vân Thâm lại nhớ tới những dằn vặt không thuộc về hắn ở Lâm Truy, cúi đầu hỏi: “Giác Phi, kiếp trước ngươi …. chết năm bao nhiêu tuổi?”
“Hai mươi chín.” Ninh Giác Phi nhìn về phía y, ôn hòa cười. “Ta nói rồi, ta lớn hơn ngươi.”
Vân Thâm bỗng nhiên nhớ tới một màn trên thảo nguyên ngày ấy, mặt không khỏi đỏ lên, không dám hỏi thêm gì nữa.
A Già vẫn nắm bông hoa trong tay, mỉm cười rồi chậm rãi nói: “Có người không tu luyện mà thành đại pháp, thật rất hiếm thấy. Không ngờ công tử là người như vậy. Chúng ta tu luyện một đời, mục đích cuối là hy vọng có thể dùng cả đời để hiểu được cách sử dụng sức mạnh của tử vong, thuận lợi vượt qua cõi âm, vào biển rộng luân hồi. Tiên sinh chưa từng tu luyện, đã có thể cùng lực lượng tử vong hòa hợp nhất thể, vượt qua cõi âm, thuận lợi chuyển thế, thực là thiên thành phật tính. Công tử vừa mới nói đến chuyện sát nhân, vậy ta muốn hỏi công tử, kiếp trước công tử có từng cứu người, có từng làm việc thiện?”
Ninh Giác Phi có chút suy nghĩ, rồi mới nói: “Ta từng giết người, những người này đều là phường tội ác tày trời, giết họ là vì cứu người. Hiện tại nghĩ lại, số người mà ta cứu nhiều hơn số người mà ta giết.” Hắn nhớ tới lúc chỉ huy bộ đội chống lũ giải nguy, nhớ tới cứu người trong bão tuyết, hay trong ngọn lửa cháy rừng, trong đêm bão giông tố, nhớ tới những con tin từng cứu trong tay phần tử khủng bố, nhớ tới những quả bom được gỡ trong khu mua sắm, trạm xe, máy bay…
A Già nhìn hắn, dường như có thể nhìn thấu suy nghĩ trong đầu hắn, không khỏi cảm thán: “Phải. Công tử hồng trần lịch kiếp, nhận hết khổ sở, nghĩ rằng do sát nghiệp kiếp trước, có lẽ đã nghĩ sai rồi.”
Ninh Giác Phi lẳng lặng nghe ông nói, nhãn thần trong trẻo, không minh trong suốt.
Vân Thâm cũng có vẻ an tĩnh nhưng trong lòng phập phòng bất định, nỗi lòng cuộn trào mãnh liệt.
A Già chậm rãi nói: “Ta kể cho công tử nghe một điển cố trong kinh Phật nhé.”
“Xin nghe ngài.” Ninh Giác Phi mặc dù nằm ở trên tháp nhưng cũng ngưng thần chuyên tâm.
Thanh âm A Già ôn hòa, không nhanh không chậm, lại rất khiến người ta nhập tâm, tiếng nói như xuyên thẳng vào tim: “Tại vô lượng kiếp, có một ngàn vương tử thề nguyện thành Phật, trong đó chỉ có một vị như nguyện đạt thành, vị đó chính là Thích Ca Mâu Ni, còn Quan Thế Âm lại thề khi các vị vương tử chưa thành Phật, bản thân tuyệt không thành Phật. Trong vô hạn từ bi của ngài, ngài nguyện đem tất cả chúng sinh trong sáu đạo luân hồi giải thoát khỏi thống khổ. Trước mặt chư phật thập phương cầu khẩn: “Ta nguyện bang trợ tất cả chúng sinh, nếu như ta có điều gì chán ghét hứa nguyện hôm nay, cơ thể ta sẽ vỡ thành ngàn mảnh.”
Ninh Giác Phi luôn luôn không tin Phật không tin đạo, nhưng hai vị Phật tổ, Thích Ca Mâu Ni cùng Quan Thế Âm hắn cũng biết, thế nên hắn nghe hiểu những gì A Già nói.
Đại Lạt Ma mỉm cười, bình thản giảng giải: “Đầu tiên, ngài xuống địa ngục đạo, sau đó từ từ bay đến ngạ quỷ đạo, súc sinh đạo, nhân đạo, tu la đạo, cuối cùng là thiên đạo. Sau đó, ngài từ thiên đạo nhìn xuống thì lại thất kinh, tuy rằng ngài đã từng ở địa ngục đạo cứu ra vô số chúng sinh nhưng vẫn có vô số chúng sinh không ngừng rơi vào địa ngục đạo. Cảnh tượng này khiến ngài cực kỳ bi ai, trong phút chốc, ngài đột nhiên mất lòng tin với thề nguyện thần thánh của mình. Vì thế, thân thể vỡ thành ngàn mảnh. Trong khi ngài tuyệt vọng, ngài hướng tất cả chư phật cầu cứu, nội tâm cực độ thống khổ của ngài đều được chư phật cảm nhận được. Tất cả chư phật lập tức từ bốn phương tám hướng đến giúp ngài, như kinh đã từng ghi, tựa như hoa tuyết phiêu nhiên mà tới. Chư phật dùng vô thượng pháp lực của mình để ghép ngài lại, và trên mỗi mảnh thân thể của ngài đều cho thêm một cánh tay, mỗi bàn tay thêm một con mắt, tượng trưng cho kết hợp trí tuệ và khéo léo, đây là dấu hiệu của từ bi. Từ đó trở đi, Quan Thế Âm thành thiên thủ thiên nhãn, pháp lực của ngài so với trước đây càng thêm rực rỡ, uy vũ, có thể cứu giúp tất cả chúng sinh. Ngay khi ngài thề nguyện trước mặt chư phật thì từ bi của ngài càng ngày càng lớn. Lúc đó, lời ngài phát nguyện là…”
Nói đến đây, ông nhìn Ninh Giác Phi đang chuyên chú nghe, mỗi từ mỗi chữ, chậm rãi nói: “Địa ngục còn đó, thề không thành Phật.”
Ninh Giác Phi rồi đột nhiên chấn động, sững sờ, trong lúc nhất thời, các loại tâm tình như thủy triều ào ào cuốn lấy hắn, trong lòng vạn niệm tề phi, nhưng vẫn không tìm ra manh mối.
Vân Thâm hiển nhiên đã sớm biết rõ điển cố Phật môn này, lúc này vẫn nghiêm túc lắng nghe, vẻ mặt nghiêm trang. Đến khi A Già nói xong, y lẩm bẩm: “Điển cố này, nói về lòng tin.”
Thanh âm A Già trầm thấp: “Công tử, ngài hoài nghi lòng tin của mình trước đây sao? Ý chí của ngài dao động sao?”
Ninh Giác Phi có chút do dự, gật đầu: “Đúng vậy, ta hoài nghi, ta dao động. Ngay khi ta đi đến thế giới này, đặc biệt… sau khi nhận những dằn vặt ấy, ta bắt đầu hoài nghi bản thân, có phải… kiếp trước ta đã làm gì sai rồi không?”
“Công tử nên kiên định với lòng mình, không cần hoài nghi. Những gì người gặp phải, chẳng qua chỉ là một trong những nổi khổ của đời người mà thôi. Thế nhân ai mà không khổ? Sinh tức là khổ, luân hồi cũng khổ. Tham mà không được là khổ, oán hận dây dưa là khổ, yêu mà biệt ly là khổ… Công tử, tế thế cứu nhân, bỏ qua tư tâm, dù nhận hết vạn khổ vẫn không là khổ. Linh hồn đến một cuộc đời mới, một mảnh đất mới, kỳ thực đều như nhau, thế giới này, thế giới kia, lúc này, lúc kia, ở đây, ở đó, đều là người của pháp giới, đều là chúng sinh đạo, không có gì khác nhau, quan trọng là… tâm của ngài.” A Già ngồi dưới ánh nắng, tiếng nói của ông trầm thấp êm dịu, cả người như tỏa linh quang. “Nhớ kỹ mười năm trước sứ đoàn Nam Sở tới đây từng đến chỗ ta truyền kinh trong chùa. Lúc đó sân rộng trước chùa ngồi đầy tín chúng, nhưng ai cũng quần áo tả tơi, phong sương đầy mặt, đó là vì lòng tin của họ kiên định, một bước đi một cái dập đầu. Vị đại nhân đó cảm thấy bế tắc, hỗn độn, nói bọn họ thật thương cảm.”
Vân Thâm mỉm cười nói tiếp: “Lúc đó, A Già đại sư đang quan sát tín chúng, nghe vậy liền nói với sứ giả, trong mắt ngươi, bọn họ thương cảm, nhưng trong mắt bọn họ, ngươi càng thương cảm. Bởi vì trong lòng ngươi nghĩ đều là vinh hoa phú quý, vì vậy suốt đời tính toán, ưu thì nhiều vui thì ít, mà trong lòng bọn họ, chỉ nghĩ đến phổ độ chúng sinh.”
Ninh Giác Phi nghe xong, trong lòng giật mình, chút bất tri bất giác đã ngồi dậy.
Nét mặt A Già vẫn bình thản như cũ, thản nhiên ung dung: “Phật có từ tâm, cũng có hàng ma thủ. Công tử đến thế giới này, tức là hữu duyên, không bằng chiếu theo lòng mình, làm những gì mình muốn. Cho dù ở thời đại nào, thịnh thế luôn luôn là phúc của bách tính, công tử không bằng buông khúc mắc, làm hết khả năng, tạo phúc cho dân.”
Ninh Giác Phi nghe xong, phong ba trong lòng cũng dừng, nét mặt trầm tĩnh, trong mắt lộ tiếu ý.
A Già nhìn thấy hắn cười, cũng cười. Ông nhìn đóa hoa trắng noãn trong tay: “Năm nay hoa rơi xuống, sang năm hoa lại nở.” Nói xong, ông khom người, nhẹ nhàng thả cánh hoa rơi trên mặt đất.
Ninh Giác Phi chậm rãi nói: “Đa tạ đại sư giáo huấn, ta đã hiểu rồi.”
A Già gật đầu: “Công tử trời sinh tuệ căn, khúc mắc đã tan, bệnh nặng chỉ là chuyện nhỏ, chỉ cần dùng phương pháp của ta, ít ngày là khỏi hẳn.”
Ninh Giác Phi chưa trả lời, Vân Thâm đã giành nói: “Vậy làm phiền A Già đại sư.”
Đạm Thai Mục cũng hạ người thi lễ: “Đa tạ đại sư.”
A Già bình thản cười nói: “Quốc sư và bệ hạ đa lễ rồi.”
Tiếp theo, ông lấy một bố nang tùy thân mang theo móc ra vài bình thuốc, nói tỉ mỉ với Vân Thâm về cách dùng, sau đó viết hai đơn thuốc, một cái dùng pha với nước, thả người vào nước nóng ngâm toàn thân, một cái khác thì ngâm vào nước rồi thoa lên người, sau đó dùng cách xoa bóp đặc biệt xoa bóp, để dược tính thâm nhập vào thân thể, xua tan bệnh khí.
A Già muốn Vân Thâm phái chuyên gia phụ trách xoa bóp cho hắn, sáng, trưa, chiều mỗi ngày ba lần, đều không thể gián đoạn. Vân Thâm muốn bản thân mình làm nhưng Ninh Giác Phi không bằng lòng. Hắn lo Vân Thâm vốn thể nhược, hiện lại trọng thương chưa khỏi, không muốn y vì mình mà hại thân. Tranh chấp một hồi, Đạm Thai Mục ở giữa khuyên can, Vân Thâm mới từ bỏ ý đó.
Đợi đến khi Vân Thâm tỉ mỉ chọn ra người xoa bóp, A Già liền giảng lại phương pháp xoa bóp cho người đó, còn ở trên người Ninh Giác Phi xoa bóp vài ngày làm mẫu.
Ngay từ đầu, Ninh Giác Phi luôn luôn đau đến mồ hôi tuôn như suối nhưng vẫn gắng gượng cắn răng chịu đựng, không rên một tiếng. Qua vài ngày, đau đớn cũng giảm dần, hắn liền cảm thấy dễ chịu hơn, tinh thần cũng tốt hơn, không còn muốn nằm trên giường nữa. Ngoại trừ lúc ngâm thuốc và xoa bóp ra, hắn luôn ở bên ngoài đi đi lại lại, hy vọng mau chóng khôi phục thể lực.
Vân Thâm thấy hắn có nghị lực như vậy cũng vừa bội phục vừa đau lòng. Đạm Thai Mục thì luôn hết lời khen ngợi, rãnh rỗi cũng thường cùng hắn đi lại vòng quanh, cùng hắn tham khảo chiến lược chiến thuật.
Một đời cách biệt bao xa sao có thể nói hết chỉ trong vài câu? Ninh Giác Phi chỉ có thể hữu vấn tất đáp, Đạm Thai Mục hỏi gì, hắn trả lời nấy, cái khác thì không nói đến.
A Già ở chỗ này nửa tháng, thấy Ninh Giác Phi đã khôi phục rất nhanh thì vô cùng thỏa mãn, xin được rời đi.
Lúc này, bệnh tình của Ninh Giác Phi đã giảm, có thể hành động như người bình thường, chỉ là không thể để quá mệt nhọc.
Một ngày nọ, xoa bóp vừa xong, Vân Thâm liền đi vào phòng.
Ninh Giác Phi đối với thị tòng trẻ mà cẩn thận tỉ mỉ xoa bóp cho hắn, Vân Dương, nói một chữ “Cảm tạ”, sau đó dưới sự giúp đỡ của thị tòng trẻ mặc quần áo vào, sau đó cười nói với Vân Thâm: “Tìm ta có việc à?”
Tay phải Vân Thâm cầm một thanh đao, tay trái cầm một quyển sách, nét mặt trịnh trọng, gật đầu với hắn.
Sau khi thị tòng kia rời đi, Ninh Giác Phi thân thiết mà hỏi: “Chuyện gì vậy?”
Vân Thâm đặt tập sách lên bàn, rồi giơ cán đao, đưa tới trước mặt hắn.
Ninh Giác Phi nhìn kỹ, chỉ thấy đao này dài hơn đao bình thường, vỏ đao được chế tạo tinh xảo, phản xạ ánh sáng sáng lóa, tựa như thanh đồng, vừa nhìn liền biết đã xưa cổ, nhưng phía trên có khắc hùng ưng đang bay lượn, phần tay cầm của đao có hình hai cánh chim ưng đang thu lại, ánh màu sáng bén, như một hùng ưng chuẩn bị săn mồi. Đao này như một con chim ưng uy vũ, trong rất sống động.
Ninh Giác Phi nhìn thân đao sáng bóng như thu thủy lướt qua trước mắt, hai mắt rạng rỡ sinh quang.
Đao dài 5 xích, hàn khí u u, cổ tay Vân Thâm khẽ chuyển, một đao vung lên, bổ xuống cái ghế bên cạnh.
Ánh đao lướt qua, chiếc ghế gỗ hoa lê nặng nề chắc chắn bị bổ làm hai, cắt ngọt như cắt đậu hũ.
Ninh Giác Phi cũng phải bật khen: “Đao tốt.”
“Nó gọi là ưng đao.” Vân Thâm nhìn thân đao hơi run trong không khí, rồi nhìn người trước mắt mình, thâm tình như nước. “Đây là bảo đao đời đời tương truyền trong Vân gia ta, đã truyền đến mười bảy đời, người cuối cùng dùng nó, là tỷ tỷ ta.”
Ninh Giác Phi nhìn y, an ủi: “Vân Thâm, người đã chết rồi, ngươi đừng quá đau buồn.”
“Ta biết. Ta không đau buồn.” Vân Thâm mỉm cười, nhìn hắn, tay trái nắm vỏ đao chỉ hướng tập sách trên bàn. “Đó là đao phổ Vân gia, là một bộ đao pháp do lịch đại tổ tiên Vân gia ra trận giết địch dần dần tổng kết mà thành.”
Ninh Giác Phi dường như hiểu ý y, nhưng chỉ lắng nghe, không nói.
Vân Thâm cười, trong ánh mắt tràn đầy sự dịu dàng, vô cùng thân thiết. Y bỗng nhiên hạ thân đao xuống, tra đao vào vỏ, rồi cầm hai tay, đưa đến trước mặt Ninh Giác Phi, động tác vẫn tự nhiên như vậy, tựa như đây là một chuyện hiển nhiên.