Thiên Sơn Khán Tà Dương

Quyển 1 - Chương 67



Ninh Giác Phi mang theo Vân Dương một đường bôn ba đến tận chiều ngày thứ ba mới đến nơi hội họp với quân Bắc Kế ở ngoài Yến Bình Quan.

Đạm Thai Mục có vẻ tiều tụy rất nhiều, người chỉ mới ba mươi tuổi mà tóc mai đã chớm bạc. Dù thế nhưng khí độ vẫn uy nghiêm, trầm ổn, biểu hiện rất bình tĩnh, trấn định.

Ninh Giác Phi từ trên lưng Liệt Hỏa nhảy xuống, hắn đã bắt đầu kiệt sức. Ninh Giác Phi đã có một thời gian khá lâu không cưỡi ngựa đường dài nên hai bên đùi cọ vào yên ngựa đã bị cọ sát đến tróc da, dù không ai nhìn thấy nhưng hắn vẫn đau như xát muối. Bước chân hắn vẫn vững vàng như cũ, bình tĩnh quỳ xuống hành lễ với Đạm Thai Mục.

Đạm Thai Mục vội vàng đưa tay đỡ: “Giác Phi, đây là chiến trường, không cần đa lễ.”

“Tuân lệnh.” Ninh Giác Phi trầm tĩnh gật đầu. “Hoàng thượng, tình hình chiến đấu ra sao rồi?”

“Vẫn công không được thành.” Đạm Thai Mục quay đầu nhìn hùng quan phương xa, nét mặt thật phức tạp. “Ngày hôm trước, quân ta điên cuồng tấn công, Ưng quân ngươi huấn luyện có người tấn công vào tận đầu thành, cướp lấy…. đầu Đức Thấm, sau đó bị Lục Nghiễm dẫn người phản kích, phải lui ra.”

“Chuyện … Đức Thấm tướng quân, ta cũng rất đau lòng.” Ninh Giác Phi thành khẩn chia buồn. “Bệ hạ xin nén bi thương.”

Đạm Thai Mục trầm thống khẽ gật đầu, đưa tay siết chặt vai hắn, đưa hắn vào vương trướng.

Trong trướng chỉ có hai gã thái giám hầu hạ, Đạm Thai Mục vung tay lên, hai người lập tức lui ra ngoài.

Đạm Thai Mục ôm Ninh Giác Phi vào lòng, siết chặt, cúi đầu vỗ vào vai hắn. Vị quân vương khí phách, rộng lượng này rốt cuộc cũng hiện ra một tia mềm yếu.

Ninh Giác Phi không biết làm sao, không dám tùy tiện ôm lại mà an ủi hắn, cũng không dám mở miệng nói lung tung, sợ không nói ra được cảm nghĩ của mình, lại thành dở, nên đành đứng đơ ra, không nói cũng không động.

Một lúc lâu, Đạm Thai Mục mới mở miệng: “Giác Phi, ngươi nghĩ Đức Thấm…sẽ chuyển thế chứ?”

“Sẽ.” Ninh Giác Phi không chút do dự trả lời.

Đạm Thai Mục dường như được an ủi phần nào, hỏi hắn: “Linh hồn sẽ không chết chứ?”

“Không.” Ninh Giác Phi khẳng định. “Ta chính là chứng cứ.”

Đạm Thai Mục ngẩng đầu lên, tâm tình đã trấn định trở lại. Hắn mỉm cười nói: “Giác Phi, ngươi thực sự là lễ vật mà thần linh ban tặng cho ta, cũng là cứu tinh mà thần linh ban tặng cho Bắc Kế chúng ta.”

Ninh Giác Phi cũng cười: “Được bệ hạ coi trọng là vinh hạnh của Giác Phi.”

Đạm Thai Mục vỗ vỗ vai hắn để cảm ơn rồi nói: “Ngươi đã đi một quãng đường dài, mau ngồi xuống, uống miếng nước, nghỉ một chút.”

Ninh Giác Phi đợi Đạm Thai Mục ngồi xuống rồi mới ngồi vào ghế, hỏi: “Tình huống thương vong của quân ta thế nào?”

“Tình hình bên Toại thành còn chưa rõ, chỉ biết mười hai ngày trước còn lại năm vạn người.” Đạm Thai Mục bình tĩnh kể. “Thương vong ở đây không lớn, chỉ có gần ba trăm người tử trận, hai nghìn người bị thương, phần lớn là vết thương nhẹ, có thể tiếp tục chiến đấu. Ưng quân hai vạn người, hôm qua tấn công thành chết mười bảy người, trọng thương chín người, thương nhẹ thì hơn trăm người.”

“Được.” Ninh Giác Phi cảm thấy yên tâm mà nở nụ cười.

Đạm Thai Mục cảm khái vô cùng: “Giác Phi, nếu như lúc trước nghe lời ngươi thì hai mươi vạn đại quân của chúng ta đã không tổn thất nặng nề đến vậy, Đức Thấm… dũng thì có nhưng mưu lại chưa đủ, thân phận lại cao quý, tính tình nóng nẩy, trên chiến trường không ai kiềm chế y, quả thật không phải đối thủ của hai tướng Kinh – Du, Nam Sở. Bây giờ, ngươi xem chúng ta phải làm gì?”

Ninh Giác Phi không muốn nhắc lại chuyện đã qua, tranh luận ai đúng ai sai, việc này chẳng thay đổi được thực tế. Hắn đứng dậy, nhìn ra ngoài một vòng, thấy xung quanh vương trướng đều có một vòng thị vệ mang đao, không ai có thể nghe trộm nên quay về trướng, nói với Đạm Thai Mục: “Bệ hạ, ta có một kế hoạch…”

Cả một ngày, hai người đều ở trong trướng bàn mưu tính kế, sau đó triệu kiến Na Ủng trở về từ Toại thành.

Màn đêm vừa buông xuống, Bắc Kế chia quân làm hai nửa, mười lăm vạn khinh kỵ binh bí mật rời đi, lặng lẽ hành quân về phía tây.

Tiếp theo đó, có người mang tin phi ngựa chạy vào lục quân ở Yến Bắc, truyền lệnh cho các nơi giữ lại một vạn nhân mã, tiếp tục công thành, những người khác lập tức thần tốc chạy về Yến Bình Quan.

Trưa ngày thứ hai, đến khi Đạm Thai Mục đợi được binh mã các nơi chạy tới mới hạ lệnh công thành. Tướng sĩ Nam Sở từ lâu đã sẵn sàng trận địa, lập tức đánh trả. Ngay lập tức, trên thành dưới thành tiếng chém giết vang lên khắp nơi, Nam Sở lăn cây, lăn đá, tên như mưa bắn xuống.

Ninh Giác Phi đứng ở cửa đại doanh, từ xa xa mà nhìn tình hình chiến đấu, đến tận chạng vạng, mới nở nụ cười. Xem ra Yến Bắc thất quận không phát hiện ra binh lực của họ đã được điều động.

Đêm đó, Đạm Thai Mục đã khôi phục lại tác phong mạnh mẽ hào sảng trước giờ, mở tiệc mừng Ninh Giác Phi.

Tiệc tàn, Ninh Giác Phi ngủ vội hai canh giờ rồi nửa đêm thức dậy, dẫn hai vạn quân lặng lẽ xuất phát, rời khỏi Yến Bình Quan.

Trong một ngày hai đêm, bọn họ vội vàng chạy hơn tám trăm dặm, theo sự dẫn đường của Na Ủng đến chân núi phía đông ở Áo Đặc.

Ninh Giác Phi ngửa đầu nhìn lên ngọn núi hiểm trở được cả ba nước gọi là ‘vùng đất chết’ này, ở đây phần lớn là núi đá, không một ngọn cỏ, độ cao so với mặt biển hơn sáu nghìn thước, mây mù lượn lờ trên sườn núi, tuyết đọng quanh năm, ưng cũng không bay qua nổi, vượn không trèo qua được, thật là một lá chắn vĩ đại của tự nhiên.

Ninh Giác Phi quay đầu lại nhìn hai vạn Ưng quân quân dung nghiêm trang, cất cao giọng: “Lúc này đây, cứu viện huynh đệ của chúng ta, cho dù phía trước có gian nan hiểm trở thế nào, chúng ta đều phải vượt qua.”

“Tuân lệnh.” Hai vạn âm thanh hùng hồn lên, không do dự, không lùi bước.

Ninh Giác Phi không cần phải nhiều lời, thúc mạnh ngựa, theo Na Ủng tiến vào núi.

Thế núi gồ ghề, căn bản không có đường. Cả đoàn quân đi được hơn mười trượng đã phải xuống ngựa, dè dặt thận trọng trèo lên những vách đá mà chỉ có sơn dương nhanh nhẹn linh hoạt mới có thể leo qua.

Ninh Giác Phi luôn nhắc nhở bộ hạ, phải cẩn thận vạn phần, tận lực tránh chiến đấu phi nghĩa giảm quân số.

Bọn họ đi qua những nơi tuyết đọng đến tận đầu gối, đi trong lúc cuồng phong gào thét mà đến một sơn khẩu. Trong giá rét, cả đoàn quân dùng da trâu bọc chân ngựa. Vì giữ ấm cơ thể, họ dùng tiểu đao cắt huyết quản của ngựa chiến, uống lấy máu ấm, sau đó cẩn thận mà bao lại cho chiến mã.

Bệnh Ninh Giác Phi chưa lành, vốn kị lạnh, nay lại liên tục hành quân ở băng thiên tuyết địa khiến bệnh tình của hắn có chút trở nặng, nhưng luôn bị hắn dùng ý chí cực kỳ kiên nhẫn nỗ lực ngăn lại, dẫn dắt đội quân thép này không ngừng tiến lên phía trước.

Vì an toàn, bọn họ ngày đi đêm nghỉ, tuyệt đối không liều lĩnh. Trải qua mười ngày bôn ba, hy sinh hơn trăm người, cả đoàn quân rốt cục cũng vượt qua ‘vùng đất chết’ này, tạo ra một kỳ tích trong lịch sử.

Theo mạch đường thế núi, bọn họ bí mật thâm nhập vào trong Nam Sở.

Ninh Giác Phi hạ lệnh cho quân đội nghỉ ngơi lấy sức, sau đó liền mang theo quân kỳ, hướng về phía tây, đến Toại thành.

Dọc theo đường đi, bách tính Nam Sở kinh hoàng nhìn thiết kỵ mặc quân phục Bắc Kế, nhìn Ưng kỳ với chữ ‘Ninh” phất phới theo gió, mà chạy trốn, la hét: “Giặc tới rồi. Bắc Kế tấn công đến rồi.”

Trong Ưng quân có người hiểu tiếng Nam Sở liền vội kêu to: “Đại quân Bắc Kế đã phá Yến Bắc, quân coi giữ Nam Sở toàn bộ đầu hàng, Lâm Truy ít ngày nữa sẽ bị công phá, bách tính chớ sợ, quân ta không tổn thương dân thường, không giết tù binh, chỉ cần không chống cự, đối xử bình đẳng, chia ruộng chia lương…”

Toàn quốc Nam Sở đều biết hai mươi vạn sĩ tốt lần trước bị bắt vẫn chưa bị giết, bây giờ, quân Bắc Kế quân dung trang nghiêm, sĩ khí ngẩng cao, lại thâm nhập được vào Nam Sở, nên cũng đã phần nào tin lời quân Bắc Kế nói ra. Ưng quân cứ như vậy, đường hoàng phi ngựa mà qua, lời đồn ‘Yến Bắc đã bị phá, đại quân Bắc Kế thẳng xuống Lâm Truy’ nhanh chóng lan truyền.

Ninh Giác Phi không áp dụng tiến quân thần tốc mà hành quân theo hình chữ S, cố ý kéo dài vài ngày, để lời đồn tới quân Nam Sở ở khu vực Toại thành, sau đó mới dẫn Ưng quân đi trên con đường độc đạo từ Yến Bắc đến Toại thành, thẳng tiến hướng tây.

Dọc theo đường đi, bọn họ quả nhiên không gặp chống cự, nhưng quân đội Bắc Kế cũng thực hiện đúng lời mình đã nói, không mảy may tơ hào một đồng của dân, đi thì đi đường hoang, không dẫm đạp đồng ruộng, ở thì ở trong một thôn nhỏ dân chúng đã chạy hết cả, đồ ăn tìm trong nhà dân, nước múc từ giếng. Chờ quân đội đi hết, có vài thanh niên gan to chạy về thôn thì phát hiện cạnh giếng có đặt tiền và một tờ giấy. Bọn họ vội vã tới báo tin cho dân thôn còn đang ở trong núi, tìm một tiên sinh biết chữ để xem, thì ra đây là danh sách những món mà quân Bắc Kế đã lấy ở trong thôn, phía trên có viết: “Vì trong thôn không người, chúng ta lấy mà không hỏi, cảm thấy rất áy náy, nay xin đưa chút ngân lượng, xem như bồi thường.” Quân Bắc Kế để lại một trăm lượng bạc, số bạc này còn giá trị hơn những thứ đồ ăn, đồ dùng mà trong thôn có.

Việc này nhất thời làm người dân rúng động, tin truyền đi hơn khắp xóm làng gần xa, tựa như chim trời, càng bay càng xa, càng truyền càng lớn, làm ngạc nhiên, hoang mang, hoài nghi, tán thưởng, cảm thán…. ngập tràn trong lòng dân Nam Sở, tựa như một hạt giống, bắt đầu đâm chồi nẩy lộc, nở hoa, kết quả.

Tuy nói như thế nhưng sự giết chóc tàn nhẫn của Bắc Kế năm xưa vẫn còn đậm dấu trong lòng bách tính Nam Sở. Do đo, khi gặp quân Bắc Kế đi ngang qua, bách tính nhất định đi đường vòng, dù trong lòng có nghi hoặc thì dân chúng phía bắc vẫn bắt đầu chạy nạn, rất nhiều người dìu già dắt trẻ thu dọn đồ đạc mà chạy về phương nam. Quan phủ địa phương cũng không thể đàn áp, thế cục Nam Sở rung chuyển bất an.

Đến gần Toại thành, Ninh Giác Phi ra lệnh toàn quân nghỉ lấy sức. Không lâu sau, có một tiểu đội trinh sát Nam Sở bắt đầu thám thính, Ưng quân phái cung thủ, lặng lẽ phục kích, một tên một người, bắn chết cả tiểu đội.

Từ đó về sau, không còn ai biết hành tung của cả đoàn quân. Có một đêm nghĩ ngơi và hồi phục, hai vạn kỵ binh tinh nhuệ tinh thần phấn chấn, người như hổ, ngựa như rồng, phi thẳng về đỉnh Thanh Phong.

Từ ba ngày trước, Kinh Vô Song và Du Hổ đã nghe những tin đồn đang lan rộng trong dân chúng, nói rằng đại quân Bắc Kế đã phá được Yến Bắc thất quận, theo hướng nam đến Lâm Truy, người ta còn truyền rằng đội quân đó người to ngựa khỏe, mang theo Ưng kỳ, thống soái là một vị tướng họ Ninh, cưỡi ngựa đỏ, thần tuấn bất phàm. Lời truyền chính xác đến như vậy, không có lửa thì sao có khói. Hai người kinh hãi vô cùng, thương nghị cả một ngày đêm, cũng không dám không tin. Nếu thực như vậy, hai đội quân tinh nhuệ của họ lại vây tàn binh Bắc Kế ở chỗ này thì đúng là thất sách. Hai người lường rằng quân tàn Bắc Kế bị bao vây ở đây chỉ còn mấy vạn, không đáng sợ, Du Hổ một người là đủ đối phó.

Do đó, mười hai vạn nhân mã Kinh Vô Song mang đến bây giờ còn hơn tám vạn người, Du Hổ bỏ thêm hai vạn nữa, vừa đủ mười vạn, để Kinh Vô Song lập tức khởi hành, dẫn quân về hướng đông, ý đồ chặn đại quân Bắc Kế tiến về phía nam và phái người phi ngựa chạy tới Lâm Truy, một là để nắm tình hình, hai là hội báo tình hình chiến đấu, xin chỉ thị.

Tổng số quân đội Nam Sở tiếp tục ở lại, tính cả quân Du Hổ lẫn quân thường trú Toại thành cũng không được bảy vạn. Nhưng số tàn quân Bắc Kế bị vây ở đỉnh Thanh Phong cũng chỉ còn hai vạn có sức chiến đấu, những người khác không chết cũng trọng thương, Du Hổ không sợ.

Kinh Vô Song đi rồi, Du Hồ phái trinh sát thăm dò tình hình. Trinh sát còn chưa trở về, thiên quân vạn mã Bắc Kế đã chạy đến sát bên.

Lúc này trời sắp sáng, binh sĩ Nam Sở bày binh bố trận mệt mỏi hơn nửa đêm đã sắp rã rời, mà phần lớn binh lính còn lại thì mới vừa rời giường, rửa mặt, ăn uống, binh doanh trở nên ầm ĩ.

Bỗng nhiên, tất cả mọi người cảm nhận được mặt đất đang rung chuyển, tiếng ù ù như mưa đá, như sấm rền gió dữ, chấn động nhân tâm. Mọi người chẳng biết xảy ra chuyện gì, đều cùng nhìn về hướng đông.

Dưới vạn tia sáng mập mờ chưa tỏ, chiến mã đỏ rực xuất hiện trong tầm mắt họ, vô số kỵ binh theo sau hắn, phi như bay. Tất cả đều hắc y hắc mã, tựa như một hắc long khổng lồ, gót sắt đạp đất, bụi mù tung bay, che trời đen đất, đại kỳ tung tay mang hình chim ưng cùng chữ ‘Ninh’ kinh hồn khiếp đảm.

Binh lính Nam Sở nơi này dù chưa tường thấy qua ngọn cờ này cũng từng nghe binh sĩ Kinh Vô Song mang đến nói qua, mọi người ai cũng giật mình, trong lòng từ lâu đã mang nỗi sợ, nay nhìn thấy tận mắt, lại càng bất an hơn.

Chỉ chốc lát, có người thốt lên: “Là Liệt Hỏa tướng quân.”

“Ninh Giác Phi tới.”

“Ninh Giác Phi…”

Rất nhiều binh sĩ nhìn thấy địch nhân rồi ngây ra như phỗng, không biết phải làm sao.

Du Hổ cùng các tướng lĩnh khác đang ăn cũng đều lao ra khỏi trướng, quát lớn ra lệnh: “Toàn quân xuất kích, lập tức nghênh chiến.”

“Phát động trận thức, chặn địch.”

Cờ lệnh bắt đầu giương cao, tiếng kèn lệnh truyền khắp bốn phương.

Chúng quân Nam Sở như vừa tỉnh mộng, lập tức ném khăn lau, bát đũa trong tay, xoay người cầm binh khí, chen lấn nhau chạy về đội, theo chỉ huy xông ra ngoài.

Lúc này, tiếng kèn trong quân Bắc Kế cũng vang lên tiếng trầm thấp, dài ngắn không đồng nhất, tiết tấu rõ ràng.

Tàn quân Bắc Kế đang héo úa sầu muộn trên đỉnh Thanh Phong cũng trở nên phấn chấn nhảy dựng lên: “Viện quân tới rồi.”

Binh sĩ Ưng quân reo hò không ngớt: “Liệt Hỏa tướng quân.”

“Ninh đại tướng quân tới rồi.”

Thương thế của Đại Đàn Minh vẫn còn nặng, lúc này giãy giụa muốn đứng lên, phó tướng Vân Đinh trong Ưng quân chạy đến bẩm báo với y: “Đại Đàn tướng quân, Ninh tướng quân ra lệnh cho chúng ta lập tức hạ sơn, cùng bọn họ phá trận, ngài ấy chỉ cần Ưng quân chúng ta xuất kích, những người khác ở tại chỗ. Tướng quân, ngài còn thương tích trong người, không thể cử động, chờ chúng ta phá quân Nam Sở xong sẽ đến đón ngài.”

Đại Đàn Minh vui sướng gật đầu: “Tốt, ngươi mau đi đi.”

“Tuân lệnh” Vân Đinh hành lễ với y rồi xoay người rời khỏi, vừa đi vừa lớn tiếng lệnh cho Ưng quân.

Hơn vạn binh sĩ Ưng quân hưng phấn hoan hô, sĩ khí tăng vọt, cùng nhau xoay người lên ngựa, tựa như hổ dữ vồ mồi, phóng nhanh xuống chân núi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.