Thoát Bắc Giả

Chương 13: Phố quầy ăn



*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Trong quá trình hành động, Lee Jung Ho không hề lên tiếng lần nào.

Anh chính là kiểu nhân viên đặc cần cao cấp: bình tĩnh, dũng mãnh, nhanh trí, phục tùng. Nếu không có người như thế phụ tá, rất có thể Sourin đã từ bỏ toàn bộ kế hoạch, hoặc lựa chọn trực tiếp hy sinh Becker.

Dù bảo vệ an toàn người chỉ điểm rất quan trọng, nhưng sẽ luôn có nhiệm vụ số một quan trọng hơn bất cứ ai.

Đậu xe về lại garage, Sourin đổi sang mặc váy nỉ, khoác áo dạ khuy sừng vào, trông không khác gì sinh viên đang nghỉ đông.

Cô lục lọi ngăn kéo của Im Dong Kwon lấy trang phục ra, ép Lee Jung Ho mặc vào: “Nếu muốn ra ngoài ăn thì giả vờ cho giống vào. Làm gì có sinh viên nào hẹn hò với nhân viên vận tải đâu?”

Người đàn ông nhìn cô soi mói, không nói gì xoay người vào phòng, nghiêm túc thay quần áo.

Anh cao bằng Im Dong Kwon nhưng cơ thể đầy đặn hơn, cơ bắp nên có đều có cả, chính là giá treo quần áo trời sinh. Con trai bình thường mà mặc áo khoác dài thì trông khá chán chường, nhưng khi anh mặc nó lại có vẻ vô cùng mạnh mẽ, vạt áo để hở lộ cổ áo sơ mi sạch sẽ, khiến hai mắt người khác sáng lên.

Sourin nhón chân, quàng khăn lông cùng màu lên cổ anh rồi lùi về sau hai bước, hài lòng thưởng thức “thành phẩm” sau cùng, còn huýt sáo một tiếng: “Phong cách thịnh hành ở Triều Tiên là gì?”

Lee Jung Ho cảnh giác bước lùi ra sau, híp mắt nhìn: “Sao hả?”

“Không sao cả.” Cô nhún vai, xoay người mở cửa, “Chỉ là phát hiện anh đẹp trai đấy chứ.”

Người đàn ông đi theo sau, thoáng ngẩn người trong một chốc.

Ví tiền của Im Dong Kwon rất dày.

Vì phải đến Aomori mai danh ẩn tính nên anh ta chuẩn bị không ít tiền mặt, đồng euro, đô la, nhân dân tệ, khéo có khi có thể mở luôn được ngân hàng đổi tiền quốc tế.

Thật ra chỉ cần không có yêu cầu quá nhiều về điều kiện sinh sống, thì những vật tư Sourin chuẩn bị dư sức để ba người sinh sống.

Dù là Lee Jung Ho đang trong thời kỳ khôi phục cũng được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cơ bản như protein, đã đạt đến tình trạng tốt nhất: sức mạnh cơ bắp bộc phát, khả năng chịu đựng vật lý đã cải thiện đáng kể, thậm chí Sourin không dám tùy tiện động thủ với anh nữa.

Trong khoảng thời gian ngụy trang ẩn nấp, bọn họ cố gắng giảm bớt số lần xuất hiện ở bên ngoài, mọi khi chỉ đều ăn đồ ăn nguội cho no bụng, duy trì nhu cầu sinh lý cơ bản.

Chỉ trong những trường hợp hiếm hoi, Sourin mới đồng ý ra ngoài cải thiện cơm nước.

Mà trước mắt chắc chắn là một cơ hội hiếm có – Im Dong Kwon nổi cơn thịnh nộ, để lại cho hai người một chồng tiền mặt – dù sau này cảnh sát có truy xét, cũng sẽ không liên hệ đôi tình nhân ‘bất chợt’ này với tiểu tổ hành động ba người.

Garage thuê nằm sát đường Furukawa ở trung tâm thành phố Aomori, ở đây, tòa nhà văn phòng rồi cửa hàng bách hóa mọc lên chi chít san sát. Cũng tương tự như con phố Marunouchi ở Tokyo, vào ban ngày nó chính là một con phố thương mại đông đúc rộn ràng.

Mà đến khi màn đêm buông xuống, phong cảnh trên phố sẽ chìm vào tĩnh lặng.

Giữa ánh đèn đuốc của các tòa nhà chính là “phố quầy ăn” có lịch sử lâu đời tại Aomori: từng chiếc xe đẩy nhỏ đứng lặng bên đường, kê bên ngoài là bàn ghế, nằm bên trong là bếp núc. Thức ăn nóng hổi tỏa ra mùi hương dụ người, thúc giục những người đang trên đường về nhà phải ngồi xuống, hưởng thụ giây phút thư giãn hiếm hoi.*

(*Chú thích của tác giả: miêu tả trên được tham khảo cảnh tượng phố ăn uống ở Fukuoka trong chương trình “Document 72 Hours” của đài truyền hình NHK, Nhật Bản.)

Vén rèm cửa lên là bước vào thế giới khác đầy sương mù.

Mì sợi, tempura, rau củ trộn, xiên gà nướng, chỉ là những bữa điểm tâm bình thường cũng khiến người ta thòm thèm. Giá cả rẻ chỉ là thứ yếu, còn con phố thơm nức mũi thuận tiện cho việc ăn đêm mới là mị lực vĩnh hằng.

Dọc phố quầy ăn có mười mấy tiệm, mỗi tiệm có mỗi sở trường riêng. Trong đó có mấy tiệm rất ồn ào, thậm chí khách còn phải xếp hàng đợi.

Vì để tránh tai mắt người khác, bọn họ không chọn những cửa tiệm đông đúc, mà đi về tiệm mì sợi có vẻ vắng người ở cuối phố.

Cô đẩy Lee Jung Ho vào ngồi rồi tự gọi hai tô mì thịt bò, hồ hởi tách đũa ra, ánh mắt sáng rực nhìn chăm chú bếp lò.

Sourin của lúc này thật sự trông rất giống nữ sinh viên đại học không rành thế sự, tràn đầy mong đợi với mọi thứ.

Lee Jung Ho không nói sõi tiếng Nhật, nên để phòng ngừa bị hiểu lầm, anh dứt khoát ngậm miệng. Anh chỉ lẳng lặng ngồi trong góc, không quan tâm mọi thứ trước mặt.

“Hai người là người bên ngoài hả?” Bà chủ vừa kéo bột mì thành sợi vừa nhiệt tình chào hỏi.

Sourin gật đầu: “Vâng ạ, đến đây làm việc.”

“Đến không đúng lúc chút nào, mùa đông ở Aomori lạnh lắm, qua một thời gian nữa sẽ có tuyết đấy.”

“Hay quá đi,” Cô bật cười, “Cháu còn chưa thấy tuyết rơi bao giờ.”

Nước trong nồi đã sôi, bà chủ cúi đầu bận rộn, nồi bát gáo xoong, leng keng loảng xoảng tạo nên mùi vị riêng của khu phố quầy ăn.

Lee Jung Ho không nhịn được thấp giọng hỏi: “Cô chưa thấy tuyết lần nào à?”

“Thật sự chưa từng thấy.”

Khó hiểu là, lần này anh tin đối phương nói thật.

Sau một thoáng yên lặng, Lee Jung Ho cười khổ nói: “Tuyết rơi cũng không có gì hay, không thể đi đường, hoa màu khô héo trên đất. Tới mùa xuân năm sau cây cối sẽ bị sâu bọ phá hoại, đến cả gỗ để thổi lửa cũng không có.”

Sourin ngẩng đầu, mắt nhìn bầu trời đêm xa xăm: “Chuyện bao lâu rồi?”

Người đàn ông cau mày, cố gắng tìm kiếm trong trí nhớ: “Năm Chủ Thể 86*… À, chính là năm 1997 của các cô đấy.”

(*Bản gốc tác giả ghi là năm Chủ Thể 85, có thể do tác giả tính nhầm, thực chất năm 1997 là năm Chủ Thể 86.)

Niên hiệu thông hành ở quốc nội Triều Tiên là “Chủ Thể”, lấy năm chủ tịch Kim Il Sung ra đời là 1912 làm năm thứ nhất, sử dụng cách ghi năm riêng.

Song, dù chủ tịch có vĩ đại đến đâu thì cuối cùng cũng khó thoát khỏi cái chết.

Năm 1994, sau khi Kim Il Sung qua đời, Triều Tiên gặp thảm họa thiên nhiên lẫn nhân tạo liên miên không dứt, mười năm kế tiếp được gọi là “cuộc hành quân gian khổ”, ám chỉ dù cả nước có lâm vào nạn đói vẫn giữ vững cách mạng.

“Nơi tôi ra đời cũng không dùng lịch công nguyên.” Cô đảo mắt cười nhạt, “‘Hijra’ bắt đầu tính từ năm Muhammad dời đô, di cư từ Mecca tới Medina.”

Lee Jung Ho ngẩn người: “Cô là giáo đồ của Hồi giáo?”

“Tôi chỉ sinh ra ở Liban mà thôi.” Sourin nhún vai.

Đây là viên ngọc Địa Trung Hải của Tây á và Bắc Phi, kẹp giữa Syria và Israel – hai nước dựa lưng vào Thổ Nhĩ Kỳ và Jordan, mà cuộc nội chiến hai mươi năm trước đã đưa đất nước đến bờ vực sụp đổ.*

(*Ảnh địa lý, Lebanon tức Liban.)

c13jpg

Nếu cô có thể lớn lên ở nơi đó, hơn nữa còn sống sót thì cũng không có gì khó hiểu.

Có thể do không khí ở phố quầy ăn, nên tối nay trông Sourin rất dễ gần.

Bà chủ vẫn đang chú tâm chuẩn bị nguyên liệu, khách ngồi bên cạnh vừa rời đi, khói mù bay lượn trong tiệm, chỉ có hai người họ sóng vai cùng ngồi.

Lee Jung Ho đưa tay gõ lên mặt bàn, làm như vô tình hỏi: “Có từng làm hướng đạo sinh không? Hay là lính đánh thuê?”

Sourin đột nhiên cười phá lên làm bà chủ giạt mình. Cô vội khoát tay bảo không có gì, nghiêng đầu nhìn người đàn ông đi cùng, trong con mắt đen lóe lên tia sáng: “Quả nhiên vẫn không yên tâm về tôi hả? Đồng chí Lee Jung Ho.”

Anh cắn môi, không đưa ra đánh giá.

“Bố tôi là người Liban, mẹ tôi là người Nhật Bản, trước khi nội chiến kết thúc, chúng tôi đã rời khỏi thủ đô Beirut rồi.”

Đối mặt với lời trần thuật thản nhiên mà đột ngột này, Lee Jung Ho rất bất ngờ, bốn mắt nhìn nhau, trong ánh mắt thêm mấy phần tìm tòi.

Cô dời tầm mắt đi chỗ khác, dẩu môi nói: “Thích thì tin không thì thôi.”

Chỉ chớp mắt, Sourin lại biến thành dáng vẻ của nữ sinh viên đại học, hờn dỗi than phiền với bà chủ, nói mình đói bụng rồi.

Rốt cuộc mì sợi nóng hổi cũng ra lò, nước dùng nấu từ xương heo bốc lên mùi thơm lừng, hòa thêm gia vị và vài món đi kèm phong phú, nhìn thôi đã khiến bụng kêu réo rắt.

Bà chủ nhiệt tình mời hai người, có vẻ như rất mong đợi phản ứng của khách hàng.

Sourin chắp tay nhắm mắt, làm tư thế cám ơn, sau đó phát ra tiếng “xì xà xì xụp”, ăn uống một cách sảng khoái.

Ăn uống không có tí nào gọi là nho nhã, khiến Lee Jung Ho suýt nữa tưởng cô lại biến thành nữ tài xế.

“Từ từ thôi,” Bà chủ rất vui, hài lòng cười nói, “Không đủ thì múc thêm.”

Dưới bàn, Lee Jung Ho bị đá một cái, đang cảm thấy bực thì lại nghe thấy Sourin thấp giọng nói: “Mau ăn đi, mì kiểu này ăn phải có tiếng hút, càng to càng tốt.”

Hai người vẫn luôn dùng tiếng Hàn trao đổi, bà chủ chỉ coi như anh là du khách ngoại quốc, không hề nghe hiểu nội dung nhưng vẫn mong đợi nhìn sang.

Lee Jung Ho thoáng do dự rồi cũng cúi đầu, bưng tô mì lên, nhờ vào chức năng mạnh mẽ của phổi, ngay đến đũa cũng không dùng, hai ba hơi húp sạch mì trong bát, phát ra tiếng rất ồn.

Đến khi ngước mắt lên thì thấy cả bà chủ lẫn Sourin đều đơ người, kẻ đứng người ngồi ngây ra như gỗ.

“Xin lỗi!” Bà chủ không phản ứng kịp, đứng sau quầy liên tục gập người, luống cuống ném mì sợi vào trong nồi, “Để tôi nấu nhiều thêm, anh chờ một lát.”

Sourin nín cười, vừa lén bóp lấy đùi anh vừa dùng tiếng Nhật vờ khách sáo: “Làm phiền cô rồi ạ.”

Nhờ vào huấn luyện tàn khốc từ năm này qua tháng khác, Lee Jung Ho đã không còn nhạy bén với cảm giác đau đớn, mà sức cô cũng không lớn, chỉ như bị muỗi cắn mà thôi.

Tranh thủ lúc chờ đợi, ma xui quỷ khiến anh lại chủ động mở miệng: “Tôi sinh ra ở thành phố Chongjin thuộc tỉnh Hamgyong Bắc. Năm mười tuổi vào trường Cách mạng Mangyongdae, sau chín năm huấn luyện thì trực tiếp đầu quân, nhập ngũ phục vụ cho Cục điều tra.”

Trải qua ba mươi năm cuộc đời, điều có thể nói cũng chỉ có những thứ này, Lee Jung Ho miễn cưỡng thở phào một hơi, cảm giác không còn nợ nần gì nữa.

Trường Cách mạng Mangyongdae là trường quân sự nổi tiếng ở Triều Tiên, chuyên thu nhận con cái của liệt sĩ, đào tạo nên chiến sĩ quân đội nhân dân tuyệt đối trung thành.

Sourin như không nghe thấy lời anh nói, trước sau chỉ nhìn mì sợi trắng mịn đang sôi sục ở dưới đáy nồi nước, hai mắt sáng rỡ rồi dần dà biến mất, như đom đóm lao vào hang động trong bóng đêm sâu thẳm.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.