Thụy Điển

Chương 7



Chẳng biết nên vui hay nên buồn, cũng chẳng biết là do Thụy Thiên quá chân thành hay Thụy Điển đã quá trầm mê vào ái tình của người đàn ông kia nữa.

Thì ra, tình yêu của tôi với Thụy Thiên vẫn còn mạnh mẽ như vậy. Nghe hắn nói, tôi chỉ biết bật khóc.

Suốt cuộc gọi cho Thụy Điển trong đêm hôm đó, tôi vẫn khóc như vậy. Tôi nói, Thụy Điển, Thụy Thiên vừa đến tìm em. Tôi lại nói, Thụy Điển, Thụy Thiên là yêu anh, yêu anh, yêu anh nhiều lắm. Nhưng Thụy Điển không nói gì cả. Anh im lặng.

Tiếng khóc của tôi dồn nhau vang lên trong điện thoại. Căn phòng tôi trống vắng. Nghe tiếng mình khóc vọng lại càng tự cảm thấy thương mình hơn, tiếp tục khóc nấc lên. Tôi không thể nói gì, Thụy Điển cũng chỉ nghe tôi khóc. Trước khi tôi gác máy anh nhẹ nhàng thở ra, nói, “Anh yêu thương em nhiều lắm Thụy Điển.”

Người đàn ông này của tôi chính là như vậy. Anh im lặng nghe tôi nói, im lặng chịu đựng tổn thương và càn quấy nơi tôi, im lặng hứng chịu mọi cay đắng trong cuộc đời này. Anh bao dung cho tôi nhiều lắm, chỉ là, anh không biết tự bao dung và tha thứ cho tình yêu của mình. Vậy nên, những ngày tháng đó, tôi đã nghĩ Thụy Thiên chắc hẳn phải mất thật nhiều thời gian mới có thể đưa anh trở lại. Nhưng mà không phải. Một cuộc điện thoại của Thụy Thiên, một cuộc gặp gỡ không hẹn trước nơi hiên nhà Thụy Điển, chỉ như vậy, anh đã tiếp tục ngã vào vòng tay của hắn.

Khi nghe giọng anh nói trong điện thoại, tôi chỉ có thể cười. Chẳng biết nên vui hay nên buồn, cũng chẳng biết là do Thụy Thiên quá chân thành hay Thụy Điển đã quá trầm mê vào ái tình của người đàn ông kia nữa. Anh đơn thuần quá, hoặc là tình yêu của anh dễ dàng quá, Thụy Thiên nói, anh vội vã bỏ lại tất cả sau lưng, toàn tâm toàn ý đi yêu anh ta.

Những ngày tháng đau khổ của Thụy Điển kết thúc vào cuối mùa đông năm đó. Về lại với Thụy Thiên, anh như hoàn toàn biến thành một con người khác. Ngày tết cổ truyền gặp lại tôi, Thụy Điển đã mập ra hơn một tí, gương mặt thêm chút da thịt khi cười lộ rõ lúm đồng tiền bên má trái, mái tóc đen hơi phủ xuống che đi đôi mắt đen sâu thẳm. Anh cho tôi bao lì xì, trên đó còn vẽ một cái mặt cười nhăn nhở. Ngồi xuống ghế đối diện trong quán cà phê vắng người, anh bảo, “Tết năm nay ấm quá.”

Tôi bảo anh, “Đó là tự trong lòng anh ấm áp đó thôi.”

Thụy Điển mỉm cười, bảo, “Cứ như thế này thì thật tốt quá.”

Rồi nắm lấy tay tôi, nói tiếp, “Hãy lì xì cho anh.”

Tôi hất tay Thụy Điển ra, chùi chùi như chạm phải bẩn, trả lời rằng, “Anh đã già như thế còn muốn nhận tiền lì xì.”

Thụy Điển thoáng im lặng, nhìn tôi, nhẹ nhàng nở nụ cười, “Thời gian trôi qua nhanh quá. Anh luyến tiếc thanh xuân của mình ghê.”

Hai mươi bảy tuổi, chúng tôi dường như đã già. Những người già sớm của thời đại này ngồi nhìn nhau trong quán cà phê, muốn nói gì đó, chỉ thấy cổ họng nghẹn ngào. Ôm lấy anh, tôi nói với giọng như sắp khóc, “Em nhớ anh lắm, Thụy Điển.”

Tôi sợ mình già, Thụy Điển cũng sợ mình già. Kể từ ngày gặp Thụy Thiên mấy năm về trước, đến bây giờ, đã quá nhiều chuyện xảy ra, cũng quá nhiều thay đổi. Tôi luyến tiếc anh, tôi bảo, nếu không phải vì Thụy Thiên xuất hiện, tôi và Thụy Điển bây giờ đã là vợ chồng. Thụy Điển không nói gì cả, chỉ mỉm cười đẩy tôi ra, nói, “Già rồi mà còn khóc nhè.”

Tôi chính là như vậy, thích khóc vặt, nhưng lại là đứa mạnh mẽ. Lúc đối mặt với cuộc sống tôi rất cứng cỏi, rất nghiêm túc, và không hề nhạy cảm như Thụy Điển. Thụy Điển không khóc vặt, anh cũng hầu như không bao giờ khóc, nhưng người đàn ông này của tôi quả thật rất mềm yếu, anh khóc trong lòng, khóc trong tim mình.

Lần gặp lại trong tang lễ một người bạn thời trung học vào đầu mùa hạ năm đó, tôi cũng đã thấy anh khóc như vậy. Khóc với gương mặt thanh tú không chút biểu cảm, cơ mặt căng cứng như đè nén gì đó, chỉ có con mắt đỏ hồng và khóe mắt ướt nước. Thụy Thiên đứng cạnh anh không nói gì cả, nhìn thấy tôi chỉ gật đầu cười, làm khẩu hình, nói, “Dỗ dành Thụy Điển giúp anh.”

Rồi Thụy Thiên bỏ đi. Tôi đến gần Thụy Điển, mỉm cười chào anh, “Già rồi mà còn khóc nhè.”

Thụy Điển kinh ngạc khi nhìn thấy tôi, quay qua quay lại tìm kiếm Thụy Thiên. Tôi chỉ bảo, “Anh ta trốn rồi.”

Thụy Điển mỉm cười, tôi lại nói tiếp, “Bụt hỏi, tại sao con khóc?”

Thụy Điển thoáng im lặng, nhìn xung quanh, rồi nhìn thẳng vào tôi, “Anh sợ anh chết.”

Câu trả lời của Thụy Điển làm tôi ngỡ ngàng. Định thần lại đã thấy anh ngồi xuống một góc phòng, tôi cũng vào ngồi cạnh anh, im lặng không nói. Thụy Điển rót cho tôi ly trà, tôi nhận lấy uống cạn một hơi.

“Khát? Thêm một ly nữa không?”

“Không,” tôi trả ly vào tay anh, “anh nói với em là anh bị loại bệnh nan y nào giống trên truyền hình đi?”

Thụy Điển hơi ngẩn ra khi nghe tôi nói, chợt ngoắc tay cười, “Không phải, ý anh không phải như vậy.”

“Vậy tại sao anh sợ chết.”

“Văn Vũ chết rồi, em thấy không.”

“Thì sao?”

“Văn Vũ thông minh như vậy, giỏi dang như vậy, tiền đồ xán lạn như vậy, vậy tại sao cậu ấy lại tìm đến cái chết? Hay chúng ta không thể tự định đoạt cuộc đời mình? Đúng vậy, chúng ta không thể tự định đoạt cuộc đời mình, phải không? Hôm nay đang sống, bước ra đường, gặp tai nạn giao thông, vậy là chết. Em nói xem có bao nhiêu đáng sợ. Chúng ta không chọn được cái chết cho mình, cũng không thể nhìn thấy bộ dạng mình sau khi chết sẽ thế nào, không thể tự chọn bia mộ, cũng không tính toán được nơi chôn cất. Thậm chí không thể mua cho mình bó hoa hay cắm giúp mình cây nhang.”

Giọng Thụy Điển vang lên đều đều xen lẫn tiếng tụng kinh từ bức tượng phật nho nhỏ chạy bằng pin đặt gần bàn thờ, gương mặt anh tựa như vô cảm, cũng tựa như xót xa. Nhìn tôi một lúc, anh lại nhỏ giọng nói tiếp.

“Anh không sợ chết, anh chỉ sợ không nhìn thấy Thụy Thiên nữa. Anh sợ Thụy Thiên không còn xuất hiện trước mắt anh nữa, cũng sợ Thụy Thiên chết trước anh. Nếu Thụy Thiên chết anh phải làm thế nào hả Thụy Điển?”

Câu nói của Thụy Điển làm tôi nhớ đến gương mặt nhìn nghiêng của Thụy Thiên vào buổi tối cái ngày mời tôi đi uống rượu. Dưới ánh đèn mờ và âm nhạc cũng lặng lẽ như vậy, Thụy Thiên đã nói với tôi, mất đi Thụy Điển, cuộc đời anh hỏng rồi.

Thương Thụy Điển, tình yêu của anh sao lại khó khăn như thế. Được cũng sợ, mất cũng sợ. Thụy Thiên không yêu anh thì anh đau đớn, Thụy Thiên yêu anh thì lại sợ mất đi người ta. Ai dạy cho anh cách làm sao để yên lành mà yêu thương, an tâm mà sống? Tôi thương anh như thế, Thụy Thiên yêu anh như thế, vậy mà Thụy Điển vẫn trầm mê trong sợ hãi. Tôi không đành lòng.

“Kiếp sau, anh muốn làm một đám mây to.” Thụy Điển nói. “Tan thành mưa, biến thành hơi nước, tụ lại thành mây. Mãi mãi như thế, vĩnh viễn trường tồn với thời gian.”

“Em không biết anh lại yếu đuối như vậy.”

Thụy Điển nhìn tôi, khẽ cười, “Em phải mạnh mẽ như vậy, cứ như vậy thật tốt. Anh cái gì cũng không có, cái gì cũng không cần, cũng chỉ còn em và Thụy Thiên thôi.”

“Ngã vào vòng tay Thụy Thiên, anh càng ngày càng trở nên vô dụng.”

Thụy Thiên vẫn giữ nụ cười trên môi, nhẹ nhàng ‘ừ’ một tiếng. Tiếng nói anh vang lên làm tim tôi thắt lại, đến khi nghe Thụy Điển nói ‘em đừng khóc’ thì nước mắt đã chảy đầy trên mặt. Thụy Thiên đến vỗ nhẹ vai tôi, đem Thụy Điển về. Tình yêu của tôi những năm tháng đó có lẽ đã kết thúc như vậy. Tôi chết tâm với Thụy Thiên. Không phải vì hắn ta có điểm gì xấu, mà là tình yêu của Thụy Điển làm tôi không dám tiến về phía trước. Tôi cầu mong cho hai người họ hạnh phúc, nói toàn tâm toàn ý thì không đúng, nhưng là hoàn toàn chân thành.

Chỉ có Thụy Điển mới yêu Thụy Thiên cách ngu ngốc như vậy, cũng chỉ có Thụy Thiên, mới xứng đáng để Thụy Điển yêu nhiều như thế. Hoặc là, trong thế giới này chỉ có một mình Thụy Thiên mới có thể hiểu được trái tim Thụy Điển, để yêu anh, bảo bọc anh, chăm sóc anh và đồng hành cùng anh. Người đàn ông này của tôi không kiên cường, không mạnh mẽ nhưng hoàn toàn không hề yếu đuối. Chỉ là, anh quả cảm và đa tình quá.

Những cuộc gặp gỡ bất ngờ, đến rồi đi, thoáng chốc chúng tôi đã hai mươi tám. Tang lễ bố tôi, Thụy Điển và Thụy Thiên cũng đến. Thụy Điển vốn sống cùng họ hàng từ bé, anh không có cha mẹ, một mình anh, anh chỉ có tôi và Thụy Thiên. Thấy tôi khóc, mắt Thụy Điển cũng đỏ hoe. Thụy Thiên nhẹ nhàng nắm tay anh nơi khuất ánh mắt mọi người, chỉ bảo, “Em không được khóc, sẽ làm Thụy Điển khóc thêm nữa.”

Thụy Điển gật đầu, nhẹ nhàng ôm lấy vai tôi.

Chúng tôi đứng ôm nhau suốt buổi chiều hôm đó, tang lễ kết thúc, tôi bảo anh, “Em muốn đi du lịch.”

Chỉ một câu, tôi khoác ba lô lên vai đi vòng quanh đất nước, bỏ lại Thụy Điển và thành phố phía sau. Thụy Điển liên lạc với tôi bằng điện thoại, Thụy Thiên bằng email, và tôi liên lạc với hai người họ bằng bưu thiếp.

Có lần dừng chân ở một tỉnh miền Bắc, người ta bán tấm bưu thiếp có màu xanh tím, thấp thoáng bóng lưng của một người thanh niên rất đẹp, tôi mua, gửi cho Thụy Điển. Trên đó hí hoáy ghi vài chữ, “Em muốn đây là chồng tương lai của mình.”

Thụy Điển chỉ nhắn lại cho tôi một câu, “Thật giống Thụy Thiên.”

Tôi biết, Thụy Điển luôn áy náy vì điều đó. Dù tôi không có ý, không có tình. Dù tôi đối với Thụy Thiên đã hoàn toàn không có hi vọng, nhưng Thụy Điển vẫn cảm thấy có lỗi với tôi vì điều đó.

Ngày dừng lại ở biển, tấm ảnh chụp gửi bằng tin nhắn đa phương tiện đến Thụy Điển, anh cũng bảo, “Biển thật giống Thụy Thiên.”

Tôi vừa giận vừa buồn cười, gửi cho anh tấm ảnh con mực, bảo, “Em muốn kết hôn với con mực này, thật xinh đẹp, anh có thấy nó giống Thụy Thiên không.”

Thụy Điển không trả lời tin nhắn, gọi thẳng cho tôi, nói, “Anh xin lỗi.”

“Thấy có lỗi thì trả Thụy Thiên lại cho em đi.” Tôi nói đùa.

Thụy Điển bất giác im lặng.

Tiếng sóng biển áp vào tai tôi rì rào, tôi thản nhiên nhìn biển, nhìn bầu trời, nói, “Em yêu anh, Thụy Điển.”

Thụy Điển khẽ cười trong điện thoại, trả lời, “Anh cũng rất yêu thương em.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.