Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới

Chương 2-14





<tbody></tbody>
“Dù sao thì cậu cũng là một cậu con trai tốt hơn mình,” Jonathan nói. “Cậu mang bạn gái về nhà và một ngày nào đó cậu sẽ có con. Cậu sẽ không mãi xuất hiện một mình trong các kì nghỉ. Như kiểu một nhân vật độc thân kì cục chẳng có gì khác ngoài một công việc và một cuộc sống không đáng được nhắc đến. Cậu là người có ý nghĩa hơn mình. Với bố mình thì đã quá muộn rồi nhưng cậu vẫn có thể là con trai của mẹ mình. Cậu có thể mau chóng sinh vài đứa cháu cho bà để bà không phải ngồi một mình trong căn hộ chung cư này, và ngắm nhìn những cây cỏ lăn bị cuốn đi.”
“Đồ chết tiệt,” tôi nói với Jonathan. Tôi đứng bật dậy, không hề cố ý. “Tất cả những gì anh ấy làm cho cậu là tôn sùng cậu. Còn tất cả những gì cậu làm lại là bỏ rơi anh ấy. Cậu không có quyền nói với anh ấy như thế.”
“Ôi, chị là một người tốt,” cậu nói. “Chị để tôi yêu chị và rồi bắt đầu ngủ với người bạn thân nhất của tôi. Chị là người thích hợp để bảo tôi rằng tôi có quyền làm gì.”
“Chờ đã. Để cậu yêu tôi? Ai nói là cậu đã yêu tôi?”
“Chính tôi. Tôi đang nói thế. Với cả hai người. Giờ tôi chỉ muốn hai người để cho tôi yên.”
“Jon,” Bobby nói. “Ôi, Jon...”
“Tôi phải đi đây,” Jonathan nói. “Nếu ở mãi đây, có lẽ tôi sẽ phát điên lên mất. Gặp lại hai người sau.”
“Mẹ cậu đã lấy xe đi rồi mà,” tôi nói.
“Thì tôi sẽ đi bộ.”
Cậu nhổm dậy khỏi ghế và ra khỏi cửa trước. Cánh cửa gây ra một tiếng động nhỏ đáng thương khi nó đóng lại sau lưng cậu – tiếng của thứ đồ gỗ rẻ tiền va vào một cái khung cửa nhôm.
“Anh sẽ đuổi theo cậu ấy,” Bobby nói.
“Không. Hãy để cậu ta đi, để cậu ta bình tĩnh lại. Cậu ta sẽ quay về thôi.”
“Ừ. Nhưng anh phải nói chuyện với cậu ấy. Nãy giờ anh vẫn ngồi đây mà không hề nói được gì.”
“Bố cậu ấy vừa mất,” tôi nói. “Và cậu ấy đang thiếu tỉnh táo. Cậu ấy cần ở một mình.”
“Không, cậu ấy đã phải ở một mình quá nhiều rồi,” Bobby nói. “Cậu ấy cần có anh đi theo.”
Bobby đi vòng qua tôi và ra khỏi cửa. Dù muốn tôi cũng không thể giữ nổi anh. Có lẽ tôi nên ở trong nhà một mình, nhưng tôi không thể hình dung ra cảnh mình ngồi đó với những bông hoa tang và chiếc đồng hồ cứ kêu tích tắc. Tôi đi theo Bobby và Jonathan. Không phải để can thiệp, mà vì tôi không muốn phải chờ đợi họ, một mình, trong căn nhà sạch bong này.
Lúc tôi ra ngoài, Jonathan đã đi được một dãy nhà. Cậu là một nhân vật nhỏ bé kì cục đang vội vã cắm cúi bước đi dưới ánh đèn đường. Tôi ra phố đúng lúc Bobby gọi cậu. Khi nghe thấy tiếng gọi tên mình, không hề ngoảnh lại, Jonathan bắt đầu chạy. Bobby đuổi theo. Còn tôi, sợ rằng mình sẽ bị bỏ lại một mình trong một căn hộ chung cư có ma, đuổi theo Bobby.
Anh là người chạy nhanh nhất trong ba người chúng tôi. Tôi không bao giờ tập thể dục, lại đang mang bầu và đi giày cao gót, nên tôi chạy cứ như nhân vật nữ chính trong một bộ phim ly kì. Một phụ nữ quyến rũ, yếu đuối cần được giải cứu hết lần này đến lần khác. Khi tôi vừa chạy vừa thở hồng hộc trên phố, tôi thấy Bobby đã thu hẹp khoảng cách giữa anh và Jonathan. Xung quanh chúng tôi, những tòa chung cư kì cục đứng sừng sững trong ánh đèn đằng sau những bãi cỏ trải sỏi trắng. Vài tòa nhà có những ô cửa sáng đèn. Còn phần lớn đều tối om, không có rèm và chẳng có người ở. Ngoài tiếng thở phì phò của tôi, tôi có thể nghe thấy tiếng ào ào khô khốc của màn đêm sa mạc, sự khuấy đảo của gió và bụi.
Tôi còn cách Bobby gần hai dãy nhà khi anh đuổi kịp Jonathan. Tôi thấy anh túm áo Jonathan, kéo cậu lại. Tôi thấy chân Jonathan cứ khua khua một lúc, như một nhân vật hoạt hình. Và rồi tôi thấy Jonathan ngoái lại và đấm Bobby. Đó là một cú đấm bừa dữ dội, trúng vào bụng Bobby và khiến anh gập bụng lại, có vẻ do ngạc nhiên hơn là do sức mạnh của cú đấm. Jonathan quay đi và chạy tiếp nhưng Bobby đã hét lên và chồm lên người cậu. Rồi họ cùng ngã xuống, đấm nhau loạn xạ.
“Dừng lại,” tôi thét lên. “Đồ khốn. Dừng lại, các người có nghe tôi không hả?”
Khi tôi tới chỗ họ, họ đang lăn lộn trên phố, cuống cuồng đá nhau và cố khống chế được người kia. Một vệt máu hiện lên trên má Jonathan. Tôi cúi người xuống. Thoáng chốc, tôi đã có thể túm lấy tóc của cả hai người và giật mạnh.
“Dừng lại,” tôi nói. “Dừng lại ngay.”
Họ dừng lại. Tôi không thả tóc họ cho đến khi họ buông nhau ra và ngồi đối diện nhau trên mặt đường rải nhựa tối sẫm. Vết thương trên má Jonathan rỉ máu. Tay áo cậu rách tả tơi, bay phần phật, lộ ra một mảng vai tai tái hình lưỡi liềm. Bobby, người to hơn và khỏe hơn, có một vết bẩn trên trán và một vết rách trên quần, chỗ đầu gối.
“Đồ khốn kiếp,” tôi nói. “Hai người điên rồi à? Cả hai người.”
“Ừ,” Bobby nói. Và họ cùng cười phá lên.
“Cậu có sao không?” Jonathan hỏi. “Mìh có làm cậu đau không?”
“Không. Mình không sao, ý mình là mình chẳng xây xát gì. Cậu thì sao?”
“Mình cũng nghĩ thế.” Cậu chấm chấm nhẹ lên vết thương trên má, nhìn những đầu ngón tay dính máu với vẻ ngạc nhiên và thỏa mãn. “Ôi, nhìn này,” cậu nói. “Máu.”
“Không tệ lắm đâu,” Bobby nói. “Chỉ là, cậu biết đấy, một vết thương nhỏ thôi.”
“Trước đây mình chưa bao giờ đánh nhau thật sự,” Jonathan nói. “Mình chưa bao giờ đấm ai trong đời.”
“Hồi nhỏ mình vẫn thường làm vậy,” Bobby nói. “Mình thường đấm anh trai mình. Nhưng anh ấy lớn hơn mình nhiều. Anh ấy chỉ, ờ, cười và đẩy mình ra.”
“Tôi hi vọng hai người biết được rằng hai người giống quân đê tiện đến mức nào,” tôi nói.
“Ồ, em nghĩ là em biết,” Jonathan nói.
“Đúng. Anh cũng nghĩ thế,” Bobby đáp.
Họ đứng lên và chúng tôi quay về căn hộ. Trên đường đi, Jonathan nói: “Mình xin lỗi về cách cư xử của mình. Ý mình là, trong cả tối nay và gần một năm qua.”
“Không sao,” Bobby nói. “Ý mình là, mình nghĩ rằng mình hiểu.”
Jonathan khoác tay Bobby. Họ bước đi thản nhiên và vui vẻ như hai người tỉnh lẻ đang đi dạo qua ngôi làng của họ. Jonathan chìa khuỷu tay kia ra cho tôi, nhưng tôi từ chối. Tôi đi một mình, cách họ một đoạn. Tôi nghĩ rằng sau khi dự xong đám tang, tôi sẽ lên máy bay quay về và không bao giờ gặp lại cả hai người bọn họ nữa.
Đám tang của Ned diễn ra vào lúc bốn giờ ngày hôm sau. Sáng hôm đó, em trai ông, một người bán đồ nội thất tên là Eddi, đã bay đến từ Indiana. Khói thuốc của Eddie thoát ra khỏi mũi và bay vào đôi mắt ươn ướt của ông giống hệt như kiểu của bố tôi. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ thích nổi ông ta. Có vẻ tôi chẳng thích ai ở đám tang này. Ở đây còn có mặt một phụ nữ tóc bạc đẫy đà tên là Cohen, và một bà tóc bạc nhỏ bé tên là Black. Tôi chẳng có ác cảm gì với họ nhưng tôi cứ để mắt đến những nhược điểm của họ (một cái xắc tay đựng đầy khăn giấy, phấn hồng bị đóng vảy trong những nếp nhăn quanh miệng) vì đó là xu hướng tự nhiên.
Chúng tôi đến nơi hỏa táng trong một đoàn xe ngắn nối đuôi nhau: chiếc Oldsmobile, một chiếc Honda và một chiếc Plymouth. Chúng tôi vẫn đi theo thứ tự của những chiếc xe khi đi bộ từ bãi đỗ xe đến nhà nguyện: Jonathan, Alice và Eddie đi trước, theo sau là Bobby và tôi, rồi đến hai người phụ nữ kia. Trên đường đi tôi thì thầm với Bobby: “Theo anh thì vì sao cô Alice lại tổ chức đám tang nhỏ như thế?”
“Anh nghĩ là vì sẽ chẳng có ai đến nữa ngoài từng này người,” anh thì thào đáp. Chúng tôi đang bước trên một lối đi lát bê tông rải đá dăm, hai bên là những hàng rào trồng hoa. Những bông loa kèn màu hồng ló ra từ những chiếc lá xanh mướt. Bobby đổ mồ hôi trong chiếc áo khoác sẫm màu. Tôi đã quên không mang theo cặp kính râm nào khác ngoài một cặp có mắt kính hình tam giác với khung màu đỏ tươi, thứ mà tôi không thể đeo khi đến dự một lễ tang.
“Chắc ông ấy còn phải quen những người khác nữa chứ,” tôi nói. Tôi khoác lấy tay anh, để không bị bước hụt khỏi đường vì ánh nắng chói chang đến hoa mày chóng mặt. Tôi thấy mình thích được bám vào tay anh. Nó không liên quan gì đến việc tôi thích Bobby. Khi bám vào tay người khác, tôi thấy mình thực sự giống với một người tham dự đám tang hơn, chứ không phải là một kẻ không mời mà đến.
“Ông từng điều hành một rạp chiếu phim ở Cleveland,” Bobby nói. “Ý anh là, ai sẽ đến chứ, những người hướng dẫn chỗ ngồi ở rạp từ mười năm trước à?”
“Thì, phải có ai đó chứ,” tôi nói. Chúng tôi đã gần đến nhà nguyện. Đó là một tòa nhà có đầu hồi, có vẻ được xây từ kính và gương màu. Phòng hỏa táng nằm ở phía sau. Ban đầu khi chúng tôi mới dừng xe, tôi đã tìm kiếm những ống khói, nhưng tất cả những gì hiển hiện đằng sau nhà thờ chỉ là một tòa nhà mái bằng trát xi măng với những đường rãnh chạy dọc hai bên sườn, như thể nó đã được chải bằng một cái lược khổng lồ trong khi xi măng vẫn còn ướt. Dĩ nhiên, bây giờ công nghệ đã quá tiến bộ nên người ta chẳng cần đến những ống khói nữa.
Chúng tôi ngồi xuống những hàng ghế đầu, trong sự im lặng của không khí được điều hòa. Quan tài của Ned, đóng bằng gỗ sẫm màu, được đặt dưới một cây thánh giá Lucite. Trên quan tài chỉ đặt một vòng hoa thục quỳ. Nó gợi tôi nhớ đến vòng hoa mà Donna Reed[57] đã vứt xuống biển ở đoạn cuối bộ phim Từ đây đến cõi vĩnh hằng. Tôi nghĩ rằng Ned, một ông chủ rạp chiếu phim, có lẽ sẽ thích như thế.
[57] Donna Reed (1921-1986): nữ diễn viên người Mỹ.
Tôi ngồi ở đầu cuối của băng ghế, Bobby ngồi bên phải tôi và bên trái chẳng có ai. Jonathan ngồi bên cạnh Bobby, kế đến là Alice. Jonathan đang khóc, lặng lẽ nhưng không dè dặt. Hôm nay, cậu không còn tỏ ra can đảm và vô tình nữa. Vết thương trên má cậu đã đóng vảy, được nhuốm ánh nắng rọi đến qua ô cửa kính màu, rưng rưng trên cằm cậu. Tôi sờ lên cằm mình, và những giọt nước mắt chợt rỉ ra từ mắt tôi như thể tôi vừa bấm một cái nút. Tôi nghĩ về bố tôi. Một lần, trong một cuộc tranh cãi với mẹ tôi khi đang say xỉn, ông đã đánh rơi tôi xuống một tảng tuyết. Tôi tin rằng đó là ký ức đầu tiên của tôi. Mẹ tôi đã đòi bế tôi, và trong khi họ giằng co nhau, tôi đã bị rơi xuống tuyết. Bố tôi luôn ôm tôi rất chặt, kể cả khi say. Ông sẽ không làm rơi tôi nếu mẹ tôi không cố gắng giằng lấy tôi. Tuyết lúc đó trắng muốt, lạnh giá và tĩnh mịch như chính cái chết. Tôi đã bị lún sâu xuống. Hai người họ vục tôi lên, chửi rủa nhau. Nếu Ned là bố tôi, tôi chắc chắn rằng ông sẽ không phải kết thúc cuộc đời trong một đám tang nhỏ thưa người giữa sa mạc như thế này. Nước mắt tôi trào ra. Bobby bóp nhẹ tay tôi. Trong một thoáng, tôi cảm thấy Jonathan và tôi như là hai chị em, đang được một người bạn chung an ủi. Rồi tôi nhớ ra rằng mình đang khóc cho chính mình và chút buồn riêng của tôi, chứ không phải vì tiếc thương vô hạn một người vừa mới mất. Và điều đó dường như chỉ khiến tôi khóc to hơn.
Sau đám tang, quan tài được đẩy đến chỗ hỏa táng. Chúng tôi, những người đưa tang, trở ra xe và về nhà. Tro hài cốt sẽ được sẵn sàng vào ngày hôm sau. Họ làm việc rất nhanh chóng. Tôi băn khoăn không hiểu liệu họ có sử dụng vài quy trình làm bốc hơi mới nào không. Khi chúng tôi ra khỏi nhà nguyện, tôi đeo kính râm lên để che đi đôi mắt đỏ ngầu của mình.
Mọi người quay lại nhà của Alice, từ giờ nó sẽ là nhà của Alice, chứ không còn là của Alice và Ned như trước đây nữa. Tôi nghĩ chắc Alice sẽ phải ghét ngôi nhà đó lắm, với những bức tường xi măng sơn màu bùn và máy điều hòa kêu ro ro dưới những cái cọc nhỏ và thô nhô ra bên trên các cửa sổ. Tôi ngờ rằng có lẽ Ned đã học cách thích nó. Theo một kiểu hài hước. Những người hay đi xem phim thường thấy được nhiều tình huống trớ trêu hơn.
Bobby không nói gì suốt quãng đường về nhà. Anh ấy đang tôn trọng nỗi tiếc thương của mình, tôi ngạc nhiên nghĩ. Nỗi tiếc thương của tôi dành cho một người lạ, cho những ký ức của tôi, trong khi chính anh mới là người quen biết ông hồi ông còn sống. Mặt tôi đỏ bừng. Tôi đã quên bẵng đi. Tôi đưa tay vuốt tóc anh, rồi lướt xuống ngực anh, nơi có những múi cơ và chất béo mềm mại. Tôi chợt ham muốn anh dữ dội. Tôi ham muốn lòng tốt và sự hi sinh của anh như thể chúng đã tạo nên một con người khác, một người xa lạ đẹp trai tài giỏi mà tôi vừa mới gặp. Đó không phải là nỗi khao khát dành cho một Bobby mà tôi quen biết. Tôi muốn người lạ dễ động lòng này tấp xe vào lề đường, nơi chúng tôi có thể làm tình thật dữ dội. Để bù lại cho cái ham muốn kì cục đó, tôi hôn vào tai Bobby và thì thầm: “Ổn rồi, cưng ạ.”
Anh mỉm cười. Anh đang đeo cặp mắt kính hình oval mờ mờ nên tôi không thể trông thấy ánh mắt anh lúc này, cũng như anh không thể trông thấy ánh mắt tôi. Anh không nói gì cả.
Bobby và tôi, và Jonathan và tôi – tình yêu xen lẫn tình bạn giữa chúng tôi, cùng gia đình lệch lạc mà chúng tôi đang cố tạo thành – có vẻ đã hóa thành một tình huống ngốc nghếch khác. Một ngôi nhà được xây bê tông khác được phun màu với những cái cọc phía trên các cửa sổ. Giờ đây, thật bất ngờ, khoảnh khắc đó phủ kín chiếc Honda đi thuê. Bobby và tôi đang lái xe trên một con đường cao tốc ở miền sa mạc, tham dự một tang lễ tạm bợ. Tôi đang mang thai. Anh là bố của đứa con trong bụng tôi. Jonathan, người đã làm cả hai chúng tôi đau lòng một cách mơ hồ mà tôi không thể đặt tên, đang ngồi trong chiếc xe chạy phía trước, bên cạnh người mẹ thản nhiên của cậu. Chiếc radio đang phát một bài hát cũ của Fleetwood Mac[58], lóe lên màu cam trong cái ánh nắng giữa chiều chói chang, gay gắt.
[58] Fleetwood Mac: ban nhạc rock Anh – Mỹ thành lập năm 1967 ở London.
Khi về đến nhà, hai người phụ nữ lớn tuổi đi thẳng vào bếp để làm những gì cần làm với món hầm và món tráng miệng mà họ đã mang đến. Đó là mối bận tâm của con người về việc ăn uống bất chấp sự hiện diện của cái chết. Tôi cảm thấy đỡ ngượng ngùng hơn một chút trước sự ham muốn có một cuộc làm tình nóng bỏng và hoang dại vào lúc quan tài của Ned đang được đưa vào lò thiêu.
Eddie, người em trai của Ned, ngồi hút thuốc trong chiếc ghế bành. Người ông sực nức mùi nước hoa cologne và mùi của tất cả mọi thứ mà nó định bao phủ. Tôi thắc mắc không hiểu vợ ông đâu, và liệu ông có con không. Làm sao mà ông không có vợ con được? Tôi luôn ngạc nhiên khi những điều đó lại đơn giản và quen thuộc đến vậy đối với hầu hết mọi người.
“Dịch vụ đó tốt thật,” ông nói.
“Tôi cũng nghĩ thế,” Alice nói. Hai người phụ nữ kia đã xua bà ra khỏi căn bếp của mình. Bà bước quanh phòng, chỉnh trạng lại một chút. Bà chỉnh lại một bức tranh vốn dĩ không hề bị lệch đi cho ngay ngắn. Bà đang mặc một bộ váy dạ hội màu đen mà có lẽ bà đã mang từ Cleveland đến. Chắc chắn bà sẽ chẳng cần đến một cái váy như thế trong sa mạc này. Nhiều năm trước, khi bà gói ghém đồ đạc và chuyển đi, có lẽ bà đã quyết định giữ cái váy đó cho ngày hôm nay.
Lúc đó, tôi có thể hình dung ra bà trong căn phòng ngủ ở Ohio, đang gói ghém đồ đạc để chuyển đến một căn nhà ngớ ngẩn trong sa mạc. Tôi có thể thấy bà đang phân loại đồ dùng của mình, bọc lại thành từng gói để đem cho Đội quân Cứu tế. Tôi có thể thấy bà tình cờ tìm thấy cái váy đặc biệt này. Có lẽ bà biết rằng bà sẽ cần nó một ngày nào đó. Có lẽ bà đã ngồi trên giường, cầm chiếc váy màu đen mượt mà đó với vẻ ngờ vực. Chiếc váy mà bà đã ngẫu hứng mua ở một trung tâm thương mại, không quá đắt, cũng không có gì là đặc biệt. Có lẽ bà đã ngồi một lúc trên tấm ga trải giường vải chenille màu trắng, trong chiếc quần jean, chiếc váy đen trải trên lòng. Thế rồi, với một động tác chính xác và khoa học, bà đã gói cái váy trong giấy lụa, xếp nó cùng với những bộ đồ mùa hè và những chiếc quần soóc Bermuda.
Tôi có thể thấy bà một cách rõ ràng. Tôi khẽ lắc lắc đầu, để xóa bỏ hình ảnh đó.
“Bây giờ thì chẳng có ai cả,” Eddie nói. “Ngoài những người đang ở trong phòng này. Mà chẳng hiểu sao chúng ta lại trở thành một gia đình nhỏ như thế nhỉ?”
“Chú không nhất thiết phải gặp quá nhiều người trên đời này,” Alice nói. Bà liếm ngón tay cái và lau vết bẩn trên một chiếc lá ráy thơm. “Chú làm việc của mình, nuôi dạy con cái và sống trong nhà mình, thế là đủ. Cả Ned lẫn tôi đều không phải là người hòa đồng cho lắm.”
“Ở Cleveland dường như chị luôn có bạn cơ mà,” Eddie nói.
“Những người hàng xóm ấy mà,” Alice nói. “Vài người trong số họ rất tốt. Nhưng bọn tôi đã chuyển khỏi đó rồi. Họ đều gửi hoa đến đấy chứ.”
Bà nhanh nhẹn băng qua căn phòng, và mở những tấm rèm ra. Ánh nắng ùa vào phòng như bóng đèn flash. Jonathan giật nảy mình, rồi nói: “Xin lỗi,” như thể cậu đã phạm phải một điều cực kì đáng xấu hổ. Tôi cho rằng có lẽ Alice và Ned là một trong những cặp vợ chồng mà “mọi-người-đều-yêu-quý-ông-nhưng-không-ai-chịu-được-bà.” Tôi nghĩ rằng nếu tôi lấy Ned, có lẽ ông sẽ có vài người bạn vẫn còn nghĩ đến ông mà mua một chiếc vé máy bay đến Arizona. Tôi cảm thấy những giọt nước mắt lại dâng lên, và phải siết chặt nắm tay để ngăn chúng lại. Tôi ngồi sát vào Bobby hơn. Cháu xin lỗi, chú Ned, tôi thầm nói. Trong một thoáng, có vẻ hình ảnh của Bobby và Ned đã bị lẫn lộn trong đầu óc tôi. Tôi cảm giác như mình đã sáu mươi lăm tuổi, đang ngồi đó với Bobby, người chồng quá cố của tôi, người vừa trở về từ nấm mộ để chỉ ra những khuyết điểm và lỗi lầm của tôi.
Hai người phụ nữ kia vẫn tiếp tục cuộc trò chuyện sôi nổi, thi thoảng lại có tiếng thìa gõ vào nồi leng keng. Tôi hỏi Eddie về cuộc sống của ông, để cuộc trò chuyện không bị gián đoạn. Vợ ông đã mất. Ông có hai cô con gái, đều đã kết hôn, theo như ông giải thích, họ không thể đến dự đám tang được. Ông là người đã quen với một cuộc sống quy củ, sự ra đời và những cái chết ử Muncie, Indiana. Những ký ức cứ xâm nhập vào sự chú ý của tôi khi tôi nghe Eddie nói. Bố tôi đã cho tôi đứng trên mặt quầy bar khi tôi mới lên bốn, trước tiếng vỗ tay của những người đàn ông khác. Ông đã mua cho tôi những bộ váy diêm dúa mà mẹ tôi không muốn tôi mặc. “Trông nó như một con điếm,” mẹ tôi nói, và trong nhiều năm tôi cứ tin rằng một con điếm là một kẻ được đàn ông ưa thích. Tôi cứ ngỡ đó là một hình thái tâng bốc bất đắc dĩ. Bố tôi là người vui vẻ và hay nuông chiều. Mẹ tôi thì chỉ biết đến công việc. Mãi tới khi lớn lên, tôi mới bắt đầu hiểu được bà. Bố tôi thường chửi rủa, than khóc, và ngã xuống những bậc thềm ở sân sau. Ông phá hỏng những chiếc ô tô, và bắt đầu buộc tội tôi là thông đồng với mẹ tôi. Ông trở nên quá to lớn và ồn ào, quá nguy hiểm, và nếu mẹ tôi vui vẻ hơn một chút, tôi sẽ đứng về phía bà. Bố tôi đã ngã trơ ra ở hành lang. Ông nói gì đó với tôi mà tôi không hiểu nổi, và ngay sau đó ông bỏ đi. Mẹ tôi đã dán lại giấy dán tường trong phòng bà với hoa văn hình những bông hoa cúc trong sáng rạng rỡ. Bà nói: “Giờ thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn.”
Eddie ngồi hút thuốc, đôi mắt ông mờ đục và vàng khè sau năm mươi năm nhuốm khói của chính ông. “Em chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ sống lâu hơn anh ấy,” ông nói. “Tuy anh ấy là anh cả, chị biết đấy. Nhưng mà...”
“Ừ,” Alice khẽ nói. “Tôi biết.”
Bà Cohen và bà Black từ trong bếp bước ra. Một trong hai người, tôi không thể nhớ ai là ai, lau khô tay bằng một cái khăn lau kẻ sọc. “Mong rằng ông ấy được yên nghỉ,” người kia nói.
“Dù sao thì cuộc đời anh ấy cũng không đến nỗi tệ,” Eddie nói. “Anh ấy luôn thích phim ảnh, và cuối cùng cũng được làm chủ một rạp chiếu phim. Không tệ.”
“Ông ấy là một người rất tốt,” người phụ nữ đang lau tay nói, không biết là bà Cohen hay bà Black. “Ban đêm tôi thường ngủ ngon giấc hơn, vì tôi biết rằng khi tôi gọi ông ấy, ông ấy sẽ đến ngay. Tôi chưa bao giờ phải gọi ông ấy, cảm ơn Chúa, nhưng tôi luôn biết rằng tôi có thể làm thế.”
“Một người rất tốt bụng,” người kia nói.
Jonathan đã đến ngồi trên một cái ghế. Bobby bước đến bên cậu, ngồi ghé trên tay ghế. Nếu họ có thể hợp nhất thành một người, họ sẽ rất tuyệt vời.
“Cảm ơn vì đã làm bữa tối,” Alice nói với hai người phụ nữ kia. “Có lẽ đã hơn năm giờ rồi. Sao chúng ta không uống chút gì nhỉ?”
“Ồ, tôi không bao giờ uống rượu,” người phụ nữ cầm khăn lau nói. “Tôi từng mổ thận. Tôi chỉ còn một quả thận thôi, và nó là của chị tôi đấy.”
“Đúng vậy,” người kia nói.
Tôi thắc mắc không biết hai người đó có phải là chị em không.
Sau bữa tối, họ về nhà. Eddie quay về căn phòng trong khách sạn để “tắm táp,” hứa rằng sẽ trở lại để “làm một ly trước khi ngủ.”
Alice nói: “Có lẽ hai chàng trai này cần có một khoảng thời gian riêng bên nhau. Sao các con không ra ngoài uống gì đó?”


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.