Từ Ngọc Lan là người rất chu đáo, lại còn đưa cả nào bột cà phê nào bột ca cao tới, thế mà Mạnh Thanh cũng nhất quyết không cho anh uống.
Thực ra chuyện này anh rất nghe lời Mạnh Thanh, chỉ là anh vẫn không kiềm chế được muốn trêu tên đầu gỗ này, bèn hỏi: “Đây là đồ Tây cơ mà, trong sách y đâu có viết đâu, sao em biết chắc chắn là không tốt được? Nhỡ mà uống vào còn tốt hơn thì sao?”
Mạnh Thanh nghiêm túc từ chối thẳng thừng, “Chính là vì đồ Tây, em không biết tốt hay không nên em mới không cho anh ăn.”
Nghe hợp lý biết mấy, anh cạn từ nên cũng chẳng cãi lại nổi.
Để mà nói về những ngày ở quê thì thực ra cũng chẳng có gì khốn khó lắm. Tuy đâu đâu cũng thấy dây phong tỏa, giá thực phẩm cũng đắt cắt cổ, bảy mươi cân mà đòi hơn hai mươi ngàn tệ, song cũng không còn như mấy năm trước lúc quân Nhật đi thanh trừng nữa. Nay có rất nhiều người là cựu thành viên của Thanh bang Hồng bang, lại còn có đội du kích phản bội, đoàn cảnh vệ địa phương toàn người ở quê đi tòng quân. Chỉ cần có tiền trong túi và không bị nghi ngờ có tham gia hoạt động chính trị hay kháng Nhật nào thì nhìn chung đều sẽ yên ổn.
Phó Ngọc Thanh nghe nói ở quanh mình còn có đội du kích đang hoạt động, song rốt cuộc anh cũng chẳng dám hỏi. Lúc nào anh cũng không kìm được nhớ tới Dương Thu Tâm, chẳng biết bây giờ cô đang ở đâu nữa, mỗi một lần nhớ đến là một lần thấy xót xa.
Về vấn đề quân Nhật, Mạnh Thanh vẫn rất nể nang ngài Đỗ. Có điều tình hình trong nội thành Thượng Hải lại phức tạp vượt xa cả sức tưởng tượng của hắn, Từ Ngọc Lan khuyên anh tạm thời đừng vào nội thành vội, anh cũng hoàn toàn đồng ý, chỉ quanh quẩn ở cái viện ở nông thôn này. Còn về phần Mạnh Thanh, tuy hắn không nói ra, nhưng chuyện này làm hắn rất vui.
Sau khi chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra, toàn bộ tô giới thất thủ, phim ảnh cùng báo chí Anh Mỹ trong thành phố biến mất sạch, nhưng Từ Ngọc Lan có khả năng thông thiên nên cầm được một đống đĩa nhạc với tạp chí văn học Tây đến cho anh giải sầu, chắc là sợ anh bí bách dưới quê lâu quá hỏng cả người.
Có lẽ vì có nhiều thời gian rảnh, mà trong khi đó nhu cầu ăn uống thì lại không được thỏa mãn, Phó Ngọc Thanh dồn rất nhiều công sức vào thực đơn, tờ nào cũng viết chau chuốt tỉ mỉ xinh xắn như viết sách xuất bản không bằng.
Thỉnh thoảng Mạnh Thanh cầm lên xem thử, thấy anh viết càng lúc càng ranh, có điều món nào cũng phải có cháo gà ăn kèm, hắn mới trêu, “Phải là người khác thì đời nào nuôi được cô vợ kén cá chọn canh như anh hử?”
Phó Ngọc Thanh cũng chỉ viết thế thôi, chứ anh biết ở nông thôn nguyên liệu khan hiếm, mấy món như thế cùng lắm làm được đôi ba dịp chứ nào có yêu cầu hàng bữa phải nhất nhất thế, cơ mà Mạnh Thanh nói vậy thì anh lại cố tình bảo: “Này này, cưới nhau chưa được một năm đã định kiếm cớ bỏ vợ rồi đấy à? Đâu ra người bạc bẽo tùy tiện như thế không!”
Mạnh Thanh vừa buồn cười vừa bực, hắn cằn nhằn: “Có mà mỗi anh chê em thôi, chứ em làm sao mà không muốn anh được?”
Phó Ngọc Thanh nghiêm túc kéo tay hắn: “Sao lại thế, tôi yêu em nhiều lắm, đâu có nỡ rời xa em đâu, em biết thừa mà.”
Mặt Mạnh Thanh nóng ran lên, hắn húng hắng đôi tiếng, lấy cớ đi đun nước rồi chạy biến mất xuống bếp.
Một hôm nọ, Từ Ngọc Lan đến thăm anh thì gặp trời mưa, không về ngay được nên ở lại ăn luôn bữa cơm, mới đầu Phó Ngọc Thanh còn sợ cô thấy đạm bạc quá, dè đâu cô lại không ngớt lời khen tay nghề đầu bếp, bảo là tuy thanh đạm nhưng hương vị rất lạ, rất đặc biệt, đi ăn hàng bên ngoài cũng chưa từng thấy bao giờ, lại còn nửa đùa nửa thật là muốn mời đầu bếp nhà anh về nhà mình nữa. Phó Ngọc Thanh chỉ mỉm cười chứ không nói trắng ra.
Sau đó Từ Ngọc Lan năng đến thăm anh hơn, trò chuyện tán gẫu, ăn một bữa cơm rồi lại quay về nội thành. Nhưng cô không bao giờ ăn xén cơm của anh không mà lần nào tới cũng đều cầm theo quà, tuy chẳng phải gì quý báu, song ở trong cái thời buổi khan hiếm đủ điều này thì dù chỉ là miếng thịt hun khói thôi cũng đủ để tỏ tấm lòng thành rồi.
Nhật mở hãng phim ở Thượng Hải, cô đóng vai chính trong bộ phim mới, còn cầm đến cho anh xem nữa. Kỳ thực Phó Ngọc Thanh không thích chuyện này, anh cũng từng khuyên cô hãy chừa lại một đường lui cho mình, cô rất thức thời, cũng không mang đến cho anh xem nữa.
Song anh nghe Hứa Trác Văn bảo là cô cũng nổi tiếng với bên Nhật lắm, cô đã đóng không ít những bộ phim về khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á
[1], người Nhật rất thích.
Song bọn họ chưa bao giờ nói đến những vấn đề này, bọn họ chỉ bàn về hí kịch, về phim lãng mạn, về những người đẹp trên tạp chí phương Tây, nói chung là những chuyện chẳng đụng chạm đến ai.
Lúc đó tất cả mọi người ở Trùng Khánh đều bảo quân Nhật sắp đầu hàng rồi, câu nói ấy qua đi được một năm rồi lại thêm một năm nữa, những người tham gia kháng chiến chờ hết một năm rồi lại thêm một năm nữa, vậy mà mãi ngày ấy chẳng tới, thế nhưng mọi người vẫn hăng hái chờ. Mỹ cũng đã tham chiến, ngày mà trục ma quỷ
[2] đầu hàng sẽ chẳng còn xa.
Nhưng người dân Thượng Hải lại chẳng thấy được ngày ấy, bọn họ nằm gai nếm mật qua ngày.
Lúc ấy anh có nằm mơ cũng chẳng ngờ nổi, sau khi quân Nhật đầu hàng, mình lại bị bắt vì tội làm Hán gian.