Rừng Của Thợ Săn, một quả đồi hình nón cao gần bằng Núi Nhỏ Của Chúa, nằm giữa rặng núi đó và ấp Undern. Trên đồi phủ kín rừng rậm; chỉ đỉnh đồi là trơ trụi và tràn ngập ánh mặt trời. Đó là một nơi yên ắng và hoang vu, thấm đẫm các truyền thuyết cổ. Nơi này Kẻ Đi Săn Độc Ác đã nhốt con chiến mã của mình, còn bầy chó săn ma thì lùng sục khắp các khu vực xung quanh để rồi mất hút trên ngọn đồi. Ở đó, vào những buổi chạng vạng tháng Mười một, khi bầy chim câm nín thu mình lại trên những tán thông u ám, bạn có thể nghe thấy tiếng tù và rất rõ, du dương và đầy ma mị vọng xuống từ đỉnh đồi, rồi cả tiếng chó sủa lác đác vang sâu như tiếng cưa gỗ, và đó chính là cảnh tượng hỗn loạn khiến máu ta đông cứng lại vào giờ đàn chó săn đi kiếm mồi.
Hôm nay, khi Hazel bắt đầu bắt tay vào tước vỏ cây, khu rừng tràn ngập những sắc màu lấp lánh, tinh tế và rạng ngời đến mức nàng tưởng Nữ Thần Sắc Đẹp đã trốn đến đây từ một thế giới khác, nơi nữ thần bị cầm tù và luôn khát khao tự do. Những búp chồi non óng ánh như thủy tinh xanh, còn rặng hạt dẻ hình chóp nón màu xanh xám ở phía bên kia con đường mòn thoai thoải thì trông hệt như những cây đèn nến. Trong những trảng thông rụng lá lặng gió bầy chim hồng tước cất tiếng hót dịu dàng với sức sống vô biên. Trên những sườn dốc chan hòa ánh nắng, đám lan dạ hương phô ra những nụ hoa căng đầy giữa tán lá; để rồi chẳng bao lâu nữa chúng sẽ trải ra khắp nơi một màu lam tối như tấm thảm cầu nguyện. Hazel, trong chiếc tạp dề cũ kỹ và nhiều màu sắc, với đôi cánh tay trần ánh lên mịn màng như những thân cây vừa bị tước vỏ, tựa như linh hồn của sắc đẹp trong mắt Edward khi chàng đi tới con đường mòn rợp bóng cây. Chàng hoàn toàn hiểu công việc của nàng không thích hợp với vị trí vợ tương lai của một mục sư. “Nhưng có thể nàng sẽ không bao giờ làm vợ mục sư,” chàng nghĩ trong tâm trạng thất vọng.
“Hazel, cô đã bao giờ nghĩ,” chàng hỏi khi đã ngồi xuống một khúc gỗ, “đã bao giờ nghĩ đến chuyện kết hôn chưa?”
“Tôi chưa hề nghĩ đến chuyện đó cho tới khi Cáo Nhỏ bắt gà.” Edward trông có vẻ sửng sốt. “Chuyện gì thế này,” Hazel nói tiếp. “Cha tôi (cha tôi ấy!) nói ông ấy sẽ dìm chết Cáo Nhỏ nếu nó bắt thêm một con gà nữa.”
“Cáo Nhỏ là ai?”
“Ôi! Thật lạ là ông không biết Cáo Nhỏ! Nó là con cáo nhỏ của tôi. Nó xinh lắm! Ông chưa bao giờ nhìn thấy sinh vật nào xinh như nó đâu.”
Edward nghĩ chàng đã thấy.
“Nhưng nó không quen cách sống của con người.” (Đây là một quan điểm mới mẻ đối với Edward.) “Nó là một con cáo, và nó không thể giống vật khác được. Tôi vui vì nó là một con cáo.”
“Loài cáo rất tinh quái,” Edward nói, giọng ôn tồn.
“Tinh quái!” Hazel đùng đùng nổi giận với chàng. “Tinh quái! Tôi muốn biết, vậy ai đã khiến chúng trở nên tinh quái chứ? Chúng không tự khiến mình trở nên tinh quái được.”
“Chúa Trời tạo ra chúng như vậy,” Edward nói một cách đơn giản.
“Chúa Trời làm thế để làm gì chứ, nếu như Ngài không thích chúng tinh quái?”
“Chúng ta không thể biết được tất cả lý do của Ngài; Ngài bước đi trong bóng tối.”
“Điều đó chẳng có chút nghĩa lý gì đối với tôi và Cáo Nhỏ cả,” Hazel nói. “Vậy nên tất cả những gì tôi nghĩ mình cần phải làm là lấy chồng và đưa Cáo Nhỏ đến nơi nào đó không có gà.”
“Vậy là cô đã nghĩ tới chuyện kết hôn?”
“Phải! Và tôi đã nói với cha tôi rằng tôi sẽ cưới người đầu tiên đến cầu hôn mình. Tôi đã thề như vậy trước thần Núi.”
“Vậy đã ai đến chưa?” Edward tưởng chừng như tim chàng ngừng đập.
“Chưa có một ai.”
“Chưa có ai ư?”
“Chưa có một ai.”
“Nếu có ai đó đến cầu hôn cô thì cô sẽ đồng ý lấy người đó chứ?”
“Ối chà, có vẻ như tôi buộc phải đồng ý. Nhưng điều đó chẳng quan trọng. Chẳng có ma nào đến đâu. Họ đến làm gì chứ?”
Nàng tự trả lời câu hỏi của chính mình một cách đầy đủ trong lúc đứng đó, lấp lánh trong luồng ánh sáng mặt trời mờ bụi. Đôi mắt chàng ngời sáng, nhưng nàng quá bận rộn để mà nhận ra,
“Cô có thích lấy chồng không?” chàng dịu dàng hỏi.
Chàng mong chờ một lời khẳng định đầy e lệ. Thế nhưng chàng chỉ nhận được một lời phủ định đầy dứt khoát.
“Mẹ tôi không thích lấy chồng. Mẹ nói rằng lấy chồng là kết thúc những cuộc dạo chơi trong rừng và những ngày vui chơi. Và mẹ nói hôn nhân chứa đựng nhiều nước mắt và đau khổ. Mẹ nói, ‘Con hãy cứ là của riêng con thôi. Con cũng giống mẹ, sinh ra không phải để lấy chồng. Hãy ăn cùng người khác, nhưng hãy ngủ một mình thôi’ – mẹ tôi nói thế đấy, ông Marston ạ.”
Edward sửng sốt trước bản tính thật thà không hề che đậy của nàng đến nỗi chàng không sao thốt được lời nào. Nhưng chàng âm thầm chôn vùi niềm hy vọng ngọt ngào đã nhen nhóm trong lòng mình suốt một tuần qua như đám lan dạ hương đang đơm nụ. Nỗi điên cuồng xưa cũ đang lấn át chàng, nhưng đó là nỗi điên cuồng thiên về tinh thần, mãnh liệt hơn cả nỗi điên cuồng của Reddin, như bầu trời rộng hơn và cao hơn những đám mây che khuất nó. Chàng vốn vẫn thường nghĩ nhiều đến cho hơn là nhận, vậy nên giờ chàng chỉ nghĩ đến chuyện mình có thể làm gì Hazel. Chàng cảm thấy vẻ đẹp của nàng hẳn sẽ là một sự đền đáp cho bất kỳ việc gì mà chàng ở cương vị của một người chồng có thể làm để khiến nàng hạnh phúc. Nếu nàng giãi bày tâm sự với chàng, cần chàng ở bên, tìm sự che chở nơi chàng, thì chàng cảm thấy không thể đòi hỏi gì hơn ở cuộc đời này nữa. Sức mạnh của những quy luật cổ xưa của trái đất lẩn trốn chàng. Khi ấy chàng đâu biết tính ác liệt của cuộc xung đột mà chàng đang dấn thân vào vì Hazel – mối xung đột xưa cũ như trái đất giữa dục tính và lòng vị tha.
Mà nếu biết thì chàng cũng không ngần ngại.
Đột nhiên Hazel nhìn quanh với vẻ hoảng sợ.
“Muộn rồi,” nàng nói.
“Sao cơ?”
“Nơi này không lành đâu, nếu ông nấn ná ở đây khi trời tối. Người ta bảo bầy chó săn ma sẽ xuất hiện ở đây vào lúc chạng vạng.”
Họ nhìn lên những con dốc mờ mịt, và tương lai của họ dường như cũng mờ mịt như thế.
“Có thể điều gì đó tồi tệ sẽ xảy đến với chúng ta trong khu rừng này,” nàng thì thầm.
“Khi cô ở trong sự bảo vệ của Chúa thì không có gì tồi tệ có thể xảy ra với cô đâu.”
“Vậy thì không thể có quá nhiều người ở trong sự bảo vệ của Chúa được.”
“Cô có cầu nguyện không, Hazel?” chàng hỏi giọng buồn bã.
“Có! Tôi cầu nguyện thế này này:
‘Hãy che chở cho con một năm, che chở cho con bảy năm,
Cho tới khi trên đầu con tóc vàng biến thành tóc bạc;
Hãy đưa con lên ngọn đồi trên thiên đường,
Và để con ra đi thanh thản trên chiếc giường của con.’
Tôi luôn cầu nguyện như thế đấy.”
“Ai đã dạy cô vậy?”
“Mẹ tôi.”
“Ồ, nếu mẹ cô dạy cô cầu nguyện như thế thì đó chắc chắn là một lời cầu nguyện tốt lành, đúng không?”
“Nghe này! Hắn đang phi ngựa từ đằng kia tới! Chạy đi! Chạy đi! Kẻ Đi Săn Độc Ác đến đấy!”
Đó là Reddin, gã đang đi men theo bìa rừng trên con đường về nhà sau cuộc tìm kiếm Hazel. Nếu rẽ vào trảng rừng đó gã sẽ nhìn thấy họ, nhưng gã lại phi ngựa đi thẳng.
“Nó mang điều xấu đến đấy!” Hazel kêu lên, giật cánh tay Edward; “nhìn tôi đang run này! Tôi đang hoảng sợ đây này!”
Edward kiên quyết chống lại điều mê tín đó và thay thế chúng bằng một thứ tôn giáo lành mạnh. Chàng chưa hiểu hết sức mạnh to lớn, tàn ác và cổ xưa của những hơi thở bốc lên từ đất. Chàng cũng không hiểu rằng Hazel bị xiềng xích bởi đất, bị cầm tù gần giống như đám sồi và dạ lan hương – làm nô lệ cho đất.
Khi Edward và Hazel xồng xộc bước vào phòng khách, như ánh mặt trời chiếu vào một khu vườn lưu niên, họ được đón chào bởi mùi vải mêrino bị cháy. Bà Marston đã có vài giờ ở gần thiên đường như chúng ta, những con người khốn khổ, có thể hy vọng được hưởng. Đôi giày cao cổ bẳng vải lanh có cạnh chun được đặt trên tấm chắn lò sưởi, còn váy của bà, được gấp lên một cách cẩn thận, làm lộ ra chiếc váy lót màu xám có riềm nỉ màu trắng. Chiếc khăn choàng màu hồng ở trên đầu bà, và điều đó có nghĩa là lạc quan. Với bà Marston, lạc quan song hành với ấm áp. Cặp kính của bà trượt lên trên đầu, toát lên vẻ vô hại ngông nghênh. Nằm thoải mái trong lòng bà là tờ Công việc truyền giáo và một cuộn len giả lông thú màu nâu to tướng. Edward khấp khởi hy vọng khi nhận thấy chiếc khăn choàng màu hồng ở trên đầu bà.
“Mẹ ơi, Hazel đến thăm mẹ đây này!”
Bà Marston chỉnh lại cặp kính, nhìn Hazel bằng ánh mắt săm soi, và hỏi nàng có muốn chải tóc không. Thủ tục này kết thúc, và họ ngồi uống trà.
“Cô gái, cô có mấy anh chị em?” bà hỏi.
“Chẳng có ai cả. Cháu chẳng có ai ngoài Cáo Nhỏ.”
“Edward cũng không có anh chị em. Cáo Nhỏ là ai vậy?”
“Là con cáo nhỏ của cháu.”
“Cô nói như thể động vật là người thân của cô vậy.”
“Tất cả mọi loài động vật đều là anh chị em của cháu.”
“Tôi biết, cô gái ạ. Hoàn toàn đúng. Chỉ với động vật biết nói thôi. Còn một con vật thì mãi mãi chỉ là một con vật, và nó không thể là chỗ thân quen của con người được. Chúng không có tâm hồn.”
“Có chứ, chúng có tâm hồn! Nếu chúng không có thì bà cũng không có!”
Edward vội thiết lập hòa bình.
“Mẹ ạ, ta không biết chúng có tâm hồn hay không, đúng không mẹ?” chàng nói. “Giờ chúng ta uống trà được chứ?”
Bà Marston nhìn Hazel đầy hoài nghi qua mép trên của cặp kính.
“Chúa ơi, mẹ không biết,” bà nói.
“Đấy, Hazel!” Edward mỉm cười. “Sao cô không kể vể những suy nghĩ của cô khi ở trong khu rừng đó nhỉ?”
“Có những điều lạ lùng vẫn thường xảy ra ở Rừng Của Thợ Săn, mà tại sao ông không lại không tin chuyện đó nhỉ?” Hazel nói. “Thường thì vào mùa hè những điều lạ lùng hay xảy ra nhất.”
“Điều lạ lùng gì cơ?” Edward hỏi, chỉ để có cơ hội ngắm nàng trả lời.
Hazel nhắm mắt lại, siết chặt những ngón tay vào nhau, nói bẳng giọng khe khẽ như thể nàng đang nhắc lại một bài học.
“Vào những đêm Hạ chí, ở Rừng Của Thợ Săn có những vật bình thường bất động bỗng nhiên chuyển động; chúng chuyển động rất nhanh; chúng kêu khóc thảm thiết rất lâu.” Nàng bỗng mở choàng mắt ra và tiếp tục nói đầy kịch tính, “Xuất hiện trước tiên là Kẻ Đi Săn Độc Ác, cúi rạp mình trên lưng ngựa còn con ngựa thì có cái bụng to quét đất. Một buổi sáng đi bẫy gà lôi, ông John Meares đã nhìn thấy bọt đỏ chảy ra từ lỗ mũi con ngựa chỗ bị xâu thừng. Và cái chết ập đến với ông ấy, còn những con chó săn to lớn, trông như chó thật, chỉ có điều không có mắt, đằng sau hốc mắt là những ngọn đèn rực sáng. Không ai biết chúng săn gì. Nếu nhìn thấy chúng chắc tôi chết mất,” nàng kết thúc một cách vội vã, và cắn một miếng bánh to.
“Truyện thần thoại thật thú vị,” Edward nói, “đặc biệt là truyện thần thoại về tự nhiên.”
“Thần thoại là gì, ông Marston?”
“Là chuyện không có thật, cô gái ạ,” bà Marston nói.
“Vậy thì truyện tôi vừa kể không phải là thần thoại! Tôi đã nói với các vị rằng ông John nhìn thấy máu hẳn hoi!”
“Hãy kể cho chúng tôi nghe nữa đi.” Edward chết mê chết mệt trước những lời nói du dương ngớ ngẩn từ đôi môi của nàng.
“Chẳng ai chối bỏ được sự thật rằng khu vườn ấy lúc nào cũng u tối,” Hazel tiếp tục nói, “ngoại trừ đêm Hạ chí.”
“Đêm Hạ chí!” – Giọng bà Marston nghe đầy bâng khuâng – “Là thời điểm duy nhất trong năm tôi cảm thấy thực sự ấm áp. Giá mà thời tiết cứ ấm áp như thế suốt thì tốt biết bao. Nhưng thời tiết bây giờ cũng không còn như ngày trước nữa!”
“Hãy kể cho chúng tôi nghe nữa đi, Hazel!” Edward nài nỉ.
“Sao con lại muốn nghe chứ, cưng của mẹ?”
Edward đỏ mặt trước cách dùng từ biểu lộ sự âu yếm ấy, còn bà Marston thì thể hiện ra mặt nỗi tức giận tột độ, cho đến khi bà hiểu rằng họ chỉ đang nói chuyện phiếm mà thôi.
“Bởi vì con thích… những câu chuyện từ thời xa xưa.”
“Nếu vậy thì ông cứ thử đi đến đó mà xem” – Hazel ngả người về phía trước với vẻ sốt sắng và bí ẩn – “sau khi bầy chó săn ấy đi khỏi ông sẽ nghe thấy tiếng bước chân chạy rất khẽ, và ông sẽ nhìn thấy những khuôn mặt lấp ló, những đôi tay vẫy vẫy. Và toán người phi ngựa dưới những tán lá, trông không rõ lắm, hơi gấp gáp. Và sau đó những người khác xuất hiện trong chớp nhoáng, tất cả đều bấn loạn. Và nơi đó ngập ngụa trong những tiếng thì thào, sột soạt, và những tiếng gọi xa xăm. Mẹ tôi kể rằng vào đêm Hạ chí cây cối trong khu rừng đó – hoặc người bị giam cầm trong những cái cây đó – được tự do, trườn và vùng vẫy khỏi thân cây như một con gà con thoát ra khỏi vỏ trứng – tự do như những đứa trẻ lúc tan trường; và họ đi theo bầy chó săn ma như bầy chim bám theo con chim cu gáy. Và xuất hiện sau cùng là cô hồn ở bãi trồng cây lấy củi ở Undern, lê bước chậm chạp và đơn độc giữa những cái bóng, vừa đi vừa khóc nức nở, ‘ Mất rồi…mất rồi! Ôi, khu vườn xanh tươi của tôi!’ Người ta nói rằng vào đêm Hạ chí những bông hoa bị hãm không nở, không con chim nào cất tiếng hót, không vì sao nào rơi!”
“Chuyện vớ vẩn!” bà Marston uể oải lẩm bẩm.
“Không vớ vẩn chút nào!” Hazel kêu lên. “Chuyện đó hoàn toàn là sự thật đấy!”
Bà Marston lộ vẻ uể oải như muốn gạt bỏ nàng. Hazel ý thức được sự căng thẳng.
“Mẹ!” – Giọng Edward run run vì phải nén cười mặc dù chàng cảm thấy giận cha của Hazel vì đã không dạy dỗ nàng đến nơi đến chốn – “Mẹ, mẹ cho Hazel công thức làm loại bánh tuyệt vời này được không ạ?”
“Được thôi, con yêu.” Bà già đó đã hạ cánh an toàn xuống chủ đề yêu thích của mình. “Và nếu thích cả bánh ngọt có nhân hạt nữa thì cô có thể lấy công thức làm bánh của tôi. Cô đã bao giờ ủ bơ chưa?”
Hazel chưa bao giờ ủ bơ, ướp thức ăn hay làm bánh. Món ăn mà nàng quan tâm nhất là thịt giăm bông và khoai tây chiên.
“Cháu không biết bà vừa nói gì,” nàng ngơ ngác đáp lại.
Edward cảm thấy thất vọng. Chàng cứ nghĩ nàng là một người hoàn hảo. “Ồ, nấu ăn, xét cho cùng, là việc thứ yếu. Ta bỏ qua chủ đề này đi.”
“Cô muốn nói rằng cô không biết việc ủ bơ là gì ư, cô bé tội nghiệp? Nhưng có lẽ cô biết những món khác phức tạp hơn chăng? Món sữa đông pha chanh, và trái cây ngâm. Tôi chắc rằng cô có thể làm những thứ đó, đúng không?”
Hazel mù tịt. Nàng nghĩ tốt nhất nên nói thẳng ra.
“Tôi chẳng biết làm gì cả,” nàng nói một cách bướng bỉnh.
“Nào,” Edward lại phải ra tay giải cứu, “mẹ thấy đấy, mẹ đã đúng khi nói rằng giáo dục một cô gái bây giờ không còn giống như ngày xưa nữa! Mẹ thấy Hazel đã bị bỏ mặc như thế nào rồi đấy! Mẹ có thể dạy cô ấy nhiều điều! Liệu mẹ có thể bắt đầu sớm được không?”
“Bánh bột nhão,” bà Marston bắt đầu với sự nhiệt tình của một triết gia đang trình bày học thuyết của mình, “là hỗn hợp trứng và bột được đánh nhuyễn. Hãy nói theo tôi, cô gái.”
“Hừm, làm vậy thì có ích gì chứ? Ông ta chẳng khác gì một con lợn, ông ta đâu biết mình đang ăn cái gì! Cháu sẽ không nấu cho ông ta ăn đâu.”
“Ai cơ, cô gái?” bà Marston muốn biết.
“Cha cháu.”
Bà Marston giơ hai bàn tay với sợi len giả lông thú đang đan dở lên và đảo mắt nhìn Edward.
“Chúa ơi, cô ta nói cha mình là một… một con lợn!”
“Cô ấy không có ý nói bậy đâu,” chàng thành thực nói, “phải không, Hazel?”
“Ồ, còn hơn cả thế ấy chứ!”
Mẹ con chàng thở dài.
Rồi Edward nói, “Nhưng có phải cô sẽ nấu ăn cho bố cô suốt đời đâu, cô biết mà,” và chàng thấy bối rối đến mức phải kiếm cớ đi lấy ống tẩu.
Sau đó chàng tiễn Hazel về nhà, dưới bầu trời chuyển động – cả bầu trời như đang chuyển động tựa như một chiếc cửa đẩy, và làm ló ra vầng trăng tựa như một người phụ nữ mảnh dẻ đang chờ đợi những điều bất ngờ - chàng hẳn là có thể nhỏ lệ trước sự dễ thương rất tự nhiên của Hazel. Nàng luôn trung thực với bản thân cũng như những người khác; đôi mắt nàng, giọng nói nàng, tâm hồn nàng có những điểm sáng và những bóng đen; nàng cũng có khiếm khuyết, vậy nhưng nàng vẫn vô cùng quyến rũ.
“Ôi, Chúa ơi, nếu con có thể giữ nàng ở bên cạnh và bảo vệ nàng, để nàng rạng rỡ trong ngôi nhà của con như một bông hồng, thì con chẳng còn mong muốn gì hơn,” chàng lẩm bẩm.
Những ngọn thông uốn cong một cách trang nghiêm như lúc chúng nghe Hazel hét lên, “Con sẽ không bao giờ trở thành đàn bà!” Chúng lắng nghe như người lớn nghe tiếng bi bô ngây ngô của con trẻ. Còn những vì sao, giống như các vị thần mặc giáp bạc đang ngồi chễm chệ trong những hành lang lát đá cẩm thạch màu đen sâu hút, thì dường như khinh thường giọng nói thì thầm như tiếng kêu của loài muỗi, như lúc chúng nghe câu đáp trả ngang ngạnh của Vessons, “Tôi sẽ không bao giờ nói ra!” hay những lời cầu nguyện không rõ ràng của bà Marston hay tiếng vó ngựa của Reddin. Tất cả mong muốn của con người – chiếm đoạt, chạy trốn hay đơn giản là cấm đoán – đều lang bạt rồi mất hút trong những hành lang tăm tối đó mà không để lại dư âm gì. Phải chăng giữa những hàng cột của đêm, Thượng đế đang lắng nghe và ghi nhớ, đánh giá sự ngờ nghệch của con người, không phải qua kết quả mà qua những động cơ? Và Thượng đế, trong vẻ cao nghiêm của sự sống vĩnh hằng và sự bình yên vững chắc, có bao giờ thấy được loài người mải mê chạy theo những cánh bướm sặc sỡ của sự ham muốn để rồi rơi thẳng xuống vực sâu tăm tối hay không? Và nếu Người nhìn thấy và nghe thấy sự sống chập chờn ẩn chứa đầy tai họa của mọi sinh vật, nhất là của những sinh vật đẹp nhất và yếu ớt nhất, thì liệu Người có bao giờ thở dài và nhỏ lệ, như chúng ta thường làm thế khi chứng kiến một đứa trẻ qua đời hay thấy cánh của một con bướm bị gai nhọn đâm thủng hay không?
Gánh nặng của chúng ta là thứ chúng ta không tài nào biết được. Bởi vì chúng ta không thể biết được tất cả những giọt nước mắt, những lời cầu nguyện hay những mơ ước mệt mỏi của con người.
Edward nằm trằn trọc cả đêm, lắng nghe con chim két đầu tiên bắt đầu bài ca trong trẻo của nó một cách ngập ngừng – một bài ca, với sự an toàn vàng ngọc của niềm vui, khiến cho thế giới, nơi chẳng có gì là an toàn, phải nhỏ lệ.
Càng về sáng nỗi điên cuồng trong con người Edward càng trở nên mãnh liệt hơn, và chàng cố đọc sách Phúc âm của Thánh John (cuốn sách yêu thích của chàng), nhưng từ ngữ cứ trở nên lạc lõng trong tâm trí chàng. Hazel đã chiếm trọn tâm trí chàng rồi, và như bông thanh hương trà đỏ thắm trên nền trời xanh, nàng thu hút sự chú ý về phía mình bằng vẻ ngoài hoàn mỹ của nàng. Lý trí của Edward và nền tảng giáo dục của chàng chống lại niềm khát khao đang trào dâng và hoàn cảnh đang hối thúc chàng. Nàng đã nói sẽ cưới “người đầu tiên đến cầu hôn”, và chàng chắc chắn rằng với niềm tin ngờ nghệch mù quáng, nàng sẽ giữ lời thề. Giả dụ có người khác – một người nông dân, người chưa bao giờ hiểu con người thực của Hazel – đã nghĩ về chuyện này, và quyết định đến gặp nàng ngay hôm nay và trở thành người đầu tiên thì sao nhỉ? Chuyện đó có thể xảy ra lắm chứ. Và khi đó bông hoa của chàng sẽ biến mất, còn người đàn ông kia thì chẳng bao giờ biết đó là một bông hoa. Chàng tự đẩy mình vào nỗi canh cánh không yên, nhưng vẫn thức dậy và đi ra ngoài không gian tươi mát, nhìn mặt trời mọc lơ lửng phía trên những đồng cỏ xanh xám và vàng nhạt. Chàng nhìn băng trượt xuống từ những chùm nụ tử đinh hương nhọn hoắt và rạng ngời, nhìn lũ cừu gặm những ngọn cỏ đẫm sương, và đi tới đi lui chẳng chút dè dặt theo cái cách những con vật thường thể hiện trong những giờ đầu tiên của ngày mới trước khi sự căng thẳng mà xã hội loài người áp đặt lên chúng. Tuy vậy chàng chẳng để tâm đến bất cứ thứ gì, cho tới khi một vệt mây dài màu đỏ ối đầy sống động nhắc chàng nhớ đến Hazel và chàng phát hiện ra một bông violet ở gần cổng nghĩa địa.
“Hazel bé bỏng!” chàng thì thầm. Chàng ngẫm nghĩ về tương lai, và cố gắng hình dung ra một cuộc đi dạo vào buổi sáng như buổi sáng nay cùng với Hazel mà không sao hình dung nổi bởi niềm hạnh phúc của cảnh tượng ấy quá choáng ngợp. Để rồi chàng lại đấu lý trí với chính mình. Sự hấp tấp điên cuồng này có lẽ không thích hợp cho lắm. Chàng phải chờ đợi. Nhưng còn lời thề đó! Lời thề dại dột và ngây thơ của nàng!
“Mình có thể chăm sóc nàng. Nàng sẽ trổ hoa như một bông violet trong khu vườn yên tĩnh.”
Cho đi không bao giờ là sớm cả.
“Và mình sẽ chẳng đòi hỏi gì – trong nhiều năm. Nàng sẽ sống cuộc sống của riêng nàng, làm con gái của mẹ mình, làm em gái của mình đến chừng nào nàng muốn. Ôi, em gái!” chàng nhắc lại thành tiếng, như thể một giọng nói nào đó đang phản đối chàng. Và, quả thật, cả cái buổi sáng mênh mông này dường như đang phản đối kế hoạch của chàng – những con chim đang giao phối, những con cừu mẹ đang cho cừu con bú, tiếng ngựa hí và tiếng bò rống không ngừng vang lên từ các cánh đồng và trang trại, những bia mộ bằng đá với huyền thoại của không biết bao nhiêu gia đình, và tiếng kêu gào hắt vào đàn ông và đàn bà, không phải bằng lời nói, mà bằng mùi vị của đất và không khí, “Các người sinh ra, lớn lên, rồi lìa xa, bởi vì ta có liên quan đến các người!”
Một hạt mưa lạnh buốt táp vào má chàng, và chàng cảm thấy một cành hồng non mỏng manh đang đập một cách tuyệt vọng xuống mặt đất ẩm ướt, gãy gập và lấm bùn. Chàng đi lấy thanh nẹp để buộc lại. “Mình nghĩ,” chàng nói với chính mình, “mình được đưa đến thế giới này để nẹo những cánh hồng gãy, và những cánh hồng chưa gãy, tạ ơn Chúa! Thật kỳ lạ là nàng chưa bao giờ bị xâm hại, khi mà con người ngây ngô kia, cha nàng ấy, chẳng quan tâm gì đến nàng. Đúng vậy, mình có mặt trên đời này vì lẽ đó. Mình không thể chỉ thuyết giáo suông.” Chàng mỉm cười vẻ thiểu não khi nhớ đến cảnh giáo đoàn đã ngủ say sưa trong suốt những bài thuyết giáo hay nhất của chàng. “Mình chẳng thể nói được những điều thích hợp vào lúc thích hợp. Mình không khôn khéo. Nhưng mình có thể chăm sóc Hazel. Và đó là công việc của cuộc đời mình,” chàng nói thêm đầy vẻ ngây thơ, “có lẽ mình nên bắt đầu ngay lập tức, và đi gặp nàng ngay trong ngày hôm nay.”
Buổi sáng trở nên lóng lánh và rạng rỡ lúc chàng trở về nhà sau khi đã tìm ra giải pháp, và lẽ đương nhiên là đã hạ quyết tâm thực hiện! Mái nhà của mục sư lấp lánh chẳng khác nào thánh đường New Jerusalem! Và bầy chim bồ câu đuôi quạt, những cư dân béo tròn trùng trục của thành phố này, cất tiếng gù gù trong lúc thong thả bước đi – những đôi chân chim hồng hồng bước trên nền gạch lát đường lạnh lẽo trong buổi sáng đầy sương giá – bước tới bước lui trong ánh mặt trời buổi sớm!
Edward muốn giữ bông hoa violet mà chàng đã tìm thấy đến mức chàng quyết định phải tặng nó cho mẹ mình. Vậy nên chàng đặt nó vào chiếc đĩa của bà, và tìm kiếm một đoạn thích hợp để đọc khi cầu nguyện.
Nhã ca dường như là thứ duy nhất thực sự hợp với buổi sáng, nhưng chàng quyết định một cách khá buồn bã rằng “cái gì đó về người Hy Lạp” có lẽ sẽ làm mẹ chàng vừa lòng hơn. Vậy là chàng đọc bức thư của Thánh Paul gửi giáo hữu thành Corin, bức thư có dòng “cao trọng hơn cả là đức mến”, và giọng chàng khàn khàn mất tự chủ đến nỗi bà Marston, người vốn không chú ý đến những âm sắc nhỏ nhẹ tự khớp vẻ đẹp của chúng với bài ca của con chim két, liền đứng bật dậy khỏi chiếc ghế nơi bà đang quỳ trong tư thế cầu nguyện để đến buồng kho chế một thứ thuốc từ chanh và mật ong, thứ thuốc mà Edward kinh tởm.
“Con bị khàn giọng rồi, con yêu, và con phải uống một thìa mới được,” bà nói.
Chỉ trong thơ ca thế giới mới hiểu được một người đang yêu. Còn trong đời thực chàng được coi là kẻ bị khàn giọng, và bị ép dùng một thìa hợp chất khiến chàng muốn nôn mửa.