Cây cung nặng tám tạ (120 cân), keo dùng để dán dây cung đặc biệt cứng, thân cung làm bằng trúc đàn sơn màu đỏ thắm, hai đầu gắn sưng tê mạ vàng, loại cung này được gọi là “cung đỏ”, theo lệ chỉ có họ hàng phiên vương và các hoàng tử mới được dùng. Hít sâu một hơi, kéo dây cung phải tạo thành hình tròn như mảnh trăng rằm. Cách hai trăm bước, điểm hồng tâm ở trên tấm bia, dưới ánh nắng chói chang trông chẳng khác nào một đóa hoa to đỏ rực màu máu, xòe nở màu sắc vô cùng bắt mắt.
Đầu mũi tên bằng kim loại cắm chuẩn xác vững vàng ngay nơi tâm bia.
Năm ấy, mới năm tuổi học bắn cung, phụ hoàng tay cầm tay, dạy cho chàng cách kéo dây chiếc cung nhỏ được đặc chế. Chiếc lông vũ trắng ở ngay trước tầm mắt, quá gần, mờ mờ như một dải hoa trắng như tuyết, mà cả người thì đã như cái dây cung kia, căng như chão, cảm giác như có thể nháy mắt bắn tung đi bất cứ lúc nào.
“Vương gia.”
Hạ Tiến Hầu khom lưng mà đứng, giọng cực nhỏ.
“Trong cung vừa mới truyền chuông trống, hoàng trưởng tử bệnh chết.”
Tên lông vũ bay xoẹt như sao băng, kèm theo một tiếng vút dài mà trầm, thế đi cực nhanh, “phập” một tiếng đã cắm sâu trên tâm bia, vài gã nội quan đứng hai bên vỗ tay huyên náo. Chàng nhìn chùm lông vũ hãy còn rung rinh, bờ môi bất chợt nhếch lên, một tiếng cười nhạt. Không thể cẩu thả như vậy được. Chàng là đứa con trai kiêu ngạo nhất của vua cha, vốn từ đầu chàng đã có tất cả, và bây giờ, lại một lần nữa trở về trong tay mình.
Hạ Tiến Hầu còn muốn nói thêm:
“Vương gia, còn có... tin tức từ điện Thanh Lương báo, Thục phi nương nương bị sẩy thai.”
Chỉ nghe “xoạch” một tiếng, toàn thân Hạ Tiến Hầu run lên, chính là Duệ Thân Vương đã hung hăng quẳng cây cung đỏ trong tay xuống đất. Chàng cực kỳ tức giận, có điều lại trầm mặc không nói, nội quan đứng hầu bốn phía đều bị dọa choáng váng, Hạ Tiến Hầu khẽ ra hiệu, toàn bộ bọn nội quan vội vàng nối đuôi lui ra.
Duệ Thân Vương chậm rãi ngẩng mặt, nheo mắt nhìn những đám mây trôi trên trời cao, ánh nắng mặt trời vô cùng chói chang, trước mắt chỉ toàn một màu vàng rực, giống như có một cái bao đựng đầy bụi vàng, lúc bấy giờ vỡ bung ra, đâm tung tóe vào trong con mắt khiến người ta không mở nổi.
Cô ta dám, cô ta mà cũng dám... Thật không nghĩ cô ta cũng có cái tâm địa như vậy, chàng căm ghét mà nghĩ, thật là một con đàn bà đáng khinh.
Qua một lúc lâu, chàng mới quay mặt lại, trên mặt lại đã phủ một vẻ lười nhác, thanh âm cũng lại lười nhác như ngày thường:
“Được lắm, rất tốt. Cô ta đã có chủ trương như vậy, tự hủy tường thành, cũng đừng có trách ta đến lúc đó sao không giúp đỡ.”
Hạ Tiến Hầu nói:
“Xin Vương gia hãy bớt giận,theo như ý kiến ngu muội của nô tì, việc này chưa hẳn là do chủ chương của Thục phi, chỉ sợ là nương nương hằng ngày sử dụng “Hàn chu hoàn” (loại thuốc đỏ chế từ thủy ngân) có dược tính quá mạnh, mới xảy ra chuyện vừa rồi.”
Duệ Thân Vương trầm ngâm nói:
“Loại thuốc này theo lý thuyết thì cũng phải bảy, tám tháng mới đại phát tác, hẳn sẽ không có tác dụng sớm như vậy. Dù cho có may mắn mà sinh con được, thì cũng chỉ là một đứa trẻ đần độn bại liệt trí tuệ. Nếu cô ta đã biết dược tính của loại thuốc này, lại còn cố tình có cử chỉ như vậy, bổn vương quả thực khinh bỉ.”
Mặc dù khóe miệng chàng ẩn hiện ý cười, song đáy lòng Hạ Tiến Hầu lại phát lạnh.
Bình minh lên, trong điện Thanh Lương tràn ngập ánh ban mai lại có vẻ yên tĩnh khác thường. Các cung nữ đi đứng khẽ khàng, thổi tắt cây nến trên chiếc giá đã chảy tràn lệ đỏ. Ngự y đang trực lại càng khẽ, lúc nói chuyện trao đổi tiếng cực nhẹ, nhỏ như tự thì thầm với chính mình.
Như Sương tỉnh lại từ trong cơn mê man, khắp người tứ chi trăm mạch cùng từng tấc xương cốt như bị nát thành bột cũng dần dần khôi phục. Thần trí dù không sáng suốt cho lắm, nhưng phút chốc cũng đã nhớ lại được những chuyện xảy ra... Có một sự đau khổ kỳ dị, từ bên trong chậm rãi tràn ra, giống như đang ăn mòn, cứ từng chút tùng chút lộ ra. Nàng thấy như bị bóng đè, cả người nhẹ hẫng tựa lông chim, ngay cả mở mắt cũng chẳng còn sức, cố gắng lắm mới phát ra được vài tiếng mơ hồ, ngay cả nàng cũng không rõ là cái tiếng gì đang phát ra từ bờ môi run rẩy của mình.
Giọng của cung nữ nhỏ mà xa, như cách cả một căn phòng, dội lên ong ong:
“Nương nương, Vạn Tuế gia vừa ra ngoài, là Dự Thân Vương đến.”
Dự Thân Vương nghe báo trong cung xảy ra chuyện không may, từ chiều hôm qua đã thỉnh gặp. Mà hơi thở của Như Sương đã như có như không, tình thế nguy cấp, Hoàng Đế vẫn không rời nàng nửa bước, cho nên nào có thể triệu kiến. Đến lúc này bình minh vừa thức, Thục phi hơi có chuyển biến tốt, Hoàng Đế mới cho truyền Dự Thân Vương vào.
Hoàng trưởng tử tuy là mới có ba tuổi, song vì là đứa con duy nhất của Hoàng Đế, rất được yêu thương, lại bạo bệnh mà ra đi, dĩ nhiên Hoàng Đế vô cùng đau lòng. Còn có chuyện của Thục phi, trong vòng một ngày mà đến hai đứa con chết yểu, thương tâm gần chết. Thục phi thì mạng sống mỏng manh như sợi tơ, cả đêm Hoàng Đế không ngủ, khuôn mặt anh tuấn tái nhợt đến dọa người, đáy mắt vằn tơ máu, thân hình tiều tụy đến nỗi không nhận ra.
Dự Thân Vương thấy bộ dạng Hoàng Đế như vậy lo lắng không thôi, kêu một tiếng “Tứ ca” liền im bặt. Hoàng Đế hơi giật mình nhìn chàng, qua một hồi lâu, mới nói:
“Việc này giao cho đệ.”
Dự Thân Vương hơi chần chừ, Hoàng Đế nghiến răng nghiến lợi, gương mặt bởi vì giận dữ mà cũng biến dạng:
“Hoàng trưởng tử cùng Thục phi đều bị người mưu hại, dù đệ có muốn tìm ra kẻ đó cho trẫm, xẻo thịt, lột da, cũng chẳng thể làm bớt đi mối hận trong lòng trẫm.”
Dự Thân Vương là người cai quản quân cấm vệ, mặc dù là việc liên quan đến cung đình, song một âm mưu đầu độc ghê gớm như vậy, cũng là trách nhiệm của chàng. Cho nên chỉ im lặng mà hành lễ, ý rằng mình tuân chỉ. Hoàng Đế còn đang đi thong thả hai vòng trong điện, thình lình dừng bước, nóng nảy như phát điên:
“Một khi truy ra được lẻ chủ mưu, tức khắc bẩm tấu lại, trẫm muốn tự mình róc xương hắn.”
Thực tế thì Dự Thân Vương đã bắt tay vào việc từ trước rồi. Hôm qua, chàng vừa vào đến cung, việc đầu tiên là hạ lệnh bắt giữ toàn bộ cung nữ nội quan hầu hạ yến tiệc hôm qua, kể cả trong phòng bếp, đều giam lỏng. Sau đó cho lọc ra mỗi một món hôm qua một phần, nhất là món canh mơ xanh mà hôm qua Thục phi và hoàng trưởng tử đều dùng, lấy mẫu tất cả đem đi Thái y viện xét nghiệm chất độc. Truy xét điều tra, trắng đêm hôm qua thử nghiệm chất độc, vậy mà vẫn thành công cốc.
Sáng sớm hôm nay, Dự Thân Vương vừa lui ra khỏi ngự điện, đã nghe được tổng quản nội cung là Ô Hữu Nghĩa bẩm báo lại như vậy, trầm ngâm một lát, chợt hỏi:
“Canh mơ xanh có bỏ cả băng, băng đâu? Đã thử nghiệm chưa?”
Canh mơ xanh là một món ăn lạnh, lúc nấu bỏ thêm một miếng băng. Ô Hữu Nghĩa như bừng tỉnh đại ngộ, liên tục nói:
“May mà có Vương gia chỉ điểm.”
Lập tức sai người đi điều tra khối băng hôm đó sử dụng. Băng mà phòng bếp dùng đều lấy ra từ cùng một hầm, mà chất độc, dĩ nhiên là không được bỏ từ trước, chỉ có thể là lúc lấy bỏ băng vào mới ra tay, cho nên bèn truy cứu kẻ lấy băng.
Kẻ lấy băng là một gã nội quan của phòng bếp, tên Triệu Quý, còn chưa dùng cực hình tra tấn, đã sợ tới mức đầu gối run lẩy bẩy, dập đầu như điên:
“Nô tì oan uổng! Nô tì oan uổng! Nô tì đi lấy băng, trên đường tuyệt đối không dám trì hoãn.”
Ô Hữu Nghĩa thế nhưng lại vô cùng nhẫn nại, hỏi:
“Chớ sợ, chớ sợ, cứ bình tĩnh mà nói, ngươi nhớ lại cho cẩn thận, xem trên đường có gặp ai hay không?”
Triệu Quý nghĩ cả nửa ngày, ngập ngừng nói:
“Không gặp người nào cả. Chúng tôi hầu hạ việc này, mọi người đều biết đi lấy băng thì phải nhanh nhanh mà quay về, cũng không dám bắt chuyện trên đường? Huống hồ Thục phi nương nương đột nhiên nói muốn ăn canh mơ xanh, nhà bếp còn không có dự bị, Hồ sư phụ vội vàng phái tôi đi, dọc đường tôi chỉ hấp tấp sợ không kịp, đâu có dám nói chuyện với ai khác.”
Nói đến đây, đột nhiên “A!” một tiếng, tiếp:
“Nô tì nhớ rồi, là Trương Kỳ Mẫn ở điện Hiền Đức, ngày ấy hắn cũng đi lấy băng, thấy nô tì suốt ruột, liền đưa cho nô tì một khối đá hắn có từ trước.”
Điện Hiền Đức chính là nơi ở của Hoa phi, sắc mặt Ô Hữu Nghĩa đen lại, hỏi:
“Người đừng có mà nhớ lầm đấy, nói hươu nói vượn, nói sai một câu, cái đầu trên cổ ngươi cũng đi đời đó.”
Triệu Quý như sắp phát khóc:
“Ô tổng quản, chuyện như vầy, nô tì nào dám nói hươu nói vượn?”
Ô Hữu Nghĩa an ủi gã đôi câu, lập tức đi bẩm báo Dử Thân Vương. Theo như ý của Ô Hữu Nghĩa, thì phải tức khắc tra hỏi gã Trương Kỳ Mẫn này, song Dự Thân Vương có điều cố kỵ, chỉ đáp:
“Việc này có dính dáng đến Hoa phi, âu cũng nên thận trọng.”
Vì thế Dự Thân Vương đi bẩm báo lại với Hoàng Đế. Hoàng Đế chưa nghe xong, đã nổi cơn cuồng nộ:
“Trẫm bỏ qua cho cô ta một lần, vậy mà thị còn chưa biết đủ!”
Dự Thân Vương nói:
“Hoa phi có thân phận đặc thù, thỉnh Hoàng Thượng cho truyền Trương Kỳ Mẫn đến hỏi cho ra nhẽ, rồi hãy quyết định.”
Những lời này mà nói thì chỉ như đổ dầu vào lửa, bởi ý của chàng vốn là Hoa phi tạm thời chủ quản hậu cung, cũng giống như quốc mẫu, hẳn nên thận trọng. Thế nhưng Hoàng Đế lại cho rằng chàng đang nhắc mình, rằng phụ thân của Hoa phi chính là đại tướng của Định quốc, Hoa Lẫm. Hoa Lẫm trấn thủ một vùng rộng lớn, đại diện hai châu, triều đình đều nể trọng. Hoàng Đế tức giận không sao đè nén, nói:
“Trẫm âu có thể chịu cái loại hiếp bức như vậy?”
Phất tay áo, lập tức truyền khởi kiệu đến điện Hiền Đức.
Hoa phi cũng không có ở điện Hiền Đức.
Bởi vì Hàm phi từ chuyện của hoàng trưởng tử mà không ăn không uống, chỉ muốn tìm cái chết, điên điên khùng khùng. Hoa phi chỉ đành ở lại chăm sóc cô ấy nơi điện Tĩnh Nhân, cực lực an ủi. Trời vừa hửng thì làm lễ liệm xác hoàng trưởng tử, Hàm phi đau đớn khóc náo lên, chỉ toan tự sát cho xong, khó khăn lắm mới khuyên được cô ấy, thì đã nghe tiếng nội quan báo vào rất rành mạch:
“Hoàng Thượng giá lâm...”
Hoa phi vội sai người giúp Hàm phi trang điểm lại, bản thân thì ra cửa nghênh đón, xa xa đã nhìn thấy nội quan vây quanh Hoàng Đế, bước nhanh đến, cô ta cùng cung nữ quỳ gối bên thềm. Hoàng Đế gặp một màn như vậy, mắt đã muốn nứt ra:
“Nhà ngươi vẫn còn mặt mũi mà lảng vảng đây cơ à?”
Hoa phi thấy khuôn mặt chàng như băng giá, lạnh không ngờ được, lại nghe một câu ẩn ý như vậy, kinh hoảng trong lòng, run giọng nói:
“Thần thiếp...”
Hoàng Đế đã bùng giận:
“Cái loại đàn bà tâm địa rắn rết như nhà ngươi, hạ độc hoàng trưởng tử, mưu hại Thục phi, trẫm hôm nay mà không đem ngươi ra băm vằm trăm mảnh, quả thực có lỗi với Vĩnh Di đã uổng mạng.”
Hoa phi mặt cắt không còn giọt máu, ngay cả giọng nói cũng đã biến đổi:
“Hoàng Thượng, thần thiếp oan uổng, thần thiếp cho dù ngu muội không biết gì, cũng sẽ không bao giờ đi mưu hại hoàng trưởng tử!”
Thanh âm của Hoàng Đế đã lạnh tanh, chàng đứng dưới ánh mặt trời tươi sáng, mà giọng nói thì đã như trời đông giá rét ngày chính cửu*:
“Trẫm đã nhẫn nhịn như thế, nhớ kỹ ngươi là trắc phi từ hồi còn trong phủ, cũng là một thân thê thiếp, cho nên mới giữ lại cho một cái mạng nhà ngươi. Hoàng quý phi vì sao mà chết, ngươi vẫn tưởng là trẫm không biết hay sao?”
Trong mắt Hoa phi đã lộ thần sắc hoảng loạn vô cùng, đôi môi run rẩy, không thốt được một tiếng nào. Ngay lúc đó, chợt có tiếng một người òa khóc ở phía sau, chính là Hàm phi gạt mấy cung nữ, chạy thẳng ra cửa điện. Trông thấy Hoàng Đế đứng lặng trước bậc thềm, Hàm phi lập tức dập người xuống thềm ngọc, cứ quỳ như vậy ôm chân Hoàng Đế mà gào khóc. Hoàng Đế vốn còn đang buồn bực khôn kể, lại nghe cô ta khóc thảm thiết, luôn miệng gọi tên con, trong lòng lại càng bi ai.
Hoàng Đế lạnh lùng nhìn Hoa phi, nói:
“Dù chẳng phải cốt nhục của ngươi, thế nhưng cũng kêu ngươi một tiếng mẫu phi, vậy mà nhà ngươi vẫn đang tâm hạ thủ?”
Hoa phi nói:
“Thực oan uổng cho thần thiếp, thần thiếp tuyệt đối không bao giờ hãm hại hoàng trưởng tử.”
Hàm phi thì đầu óc đã không còn tỉnh táo, chỉ vào Hoa phi, kêu to:
“Cô ta! Chính là cô ta! Cô ta vốn đã muốn đầu độc chết Thục phi, ai ngờ còn hãm hại cả Trữ Nhi của ta, ôi Trữ Nhi đáng thương của mẹ…”
Nghẹn ngào tha thiết, lại khóc nấc lên:
“Trữ Nhi, là mẹ có lỗi với con, chỉ tại mẹ bị ma xui quỷ khiến, nghe con đàn bà này nói, rồi để mặc cho ả hạ độc, nào ai biết ngày ấy Thục phi cũng sẽ gọi cho con một chén canh, mẹ nào đâu có ngờ…”
Cô ta cả khóc cả nói, như một người điên.
Giọng Hoa phi thì lạnh lùng:
“Hàm phi! Cô đúng là điên thật rồi! Ta làm sao có thể hạ độc mưu hại Thục phi được cơ chứ?”
Hàm phi nghiến răng nghiến lợi:
“Cô mới là đồ điên! Cô bảo tôi, Thục phi có thai, nếu sinh con trai, chỉ e Hoàng Thượng sẽ lập làm thái tử, khuyên tôi sớm nên tính toán, cho nên mới hạ độc trong bữa tiệc… Hoàng Thượng, hôm ấy cô ta nói với nô tì cái gì, nô tì đều nhớ rõ rành rành…”
Rồi cô lại khóc lên:
“Trữ Nhi ơi, đều là mẹ đã hại con…”
Con mắt Hoàng Đế như chỉ muốn phun ra lửa, thuận tay rút thanh trượng kiếm của gã thị vệ bên người, “keng” một tiếng đã ném xuống bên chân Hoa phi.
“Nhà ngươi tự mình kết thúc sinh mạng là vừa, trẫm cũng sẽ theo nghi lễ của hoàng phi mà mai táng cho ngươi, sẽ không để cho cha anh ngươi phải hổ thẹn.”
Thân hình Hoa phi mềm nhũn, đã ngất đi rồi. Cung nữ nội quan tuy là cả lớp lớpngười đều quỳ ở đó, thế nhưng chẳng ai dám bước lên mà đỡ.
Hoàng Đế nói:
“Lệnh cho Ô Hữu Nghĩa đến bắt giam.”
Cũng chẳng nhìn thêm, xoay người mà đi.
Dự Thân Vương thấy Hoàng Đế giận dữ bỏ đi, đã biết không còn cứu vãn nổi, nhưng chàng thân là Vương gia, cũng không thể nào tự tiện bước vào trong hậu cung, chỉ đành mang cõi lòng nặng trĩu mà đứng ở điện Thanh Lương hầu chỉ. Vất vả lắm mới thấy được chiếc ô lọng phấp phới đằng xa, nội quan thì tiền hô hậu ủng, đều quây quanh Hoàng Đế mà trở lại. Chàng vẫn qùy ngay ngắn ở đó, dập đầu mà lạy:
“Thần đệ thỉnh Hoàng Thượng bớt giận, chuyện này vốn có nhiều chỗ đáng ngờ, mong Hoàng Thượng cho phép Định Loan được đi điều tra rõ ràng rồi hãy xét xử.”
Hoàng Đế cũng không trả lời, bởi vì Ô Hữu Nghĩa đã phụng mệnh trở về. Bên người gã còn mang theo một thanh kiếm dài trắng như tuyết, dập đầu một cái, giọng nói có phần cứng ngắc:
“Vạn Tuế gia, Hoa phi nương nương đã tự sát.”
Dự Thân Vương không bao giờ ngờ được chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi mà đã xảy ra đại biến, vẻ mặt không khỏi sa sầm. Hoàng Đế nhìn Ô Hữu Nghĩa quỳ gối nơi đó, thanh kiếm vấy máu bên cạnh gã vẫn chậm rãi nhỏ xuống từng giọt, từng giọt. Chàng khẽ thở dài, buồn bã nói:
“Trong cung liên tiếp xảy ra chuyện bất hạnh, chỉ có thể là do trẫm phúc mỏng phận bạc.”
Dự Thân Vương vốn còn đang có cả một xâu lời muốn nói, thế nhưng thấy khuôn mặt cô đơn, thần sắc tiều tụy của chàng, lời nói đã ra đến cửa miệng lại đành nuốt xuống, chỉ kêu một tiếng “Tứ ca.”
Hoàng Đế nói:
“Làm khó cho đệ rồi, lão Thất.”
Một câu nói nhàn nhạt thường thường như thế, lại khiến cho Dự Thân Vương suýt nữa rơi lệ, chàng vội vàng đè lại sự mềm yếu trong lòng, gắng gượng nói:
“Bệ Hạ không cần suy nghĩ quá nặng nề như vậy, toàn bộ việc hậu sự, cứ giao cho mình đệ là được.”
Cái gọi là “hậu sự” quả thực rất nhiều.
Hoàng trưởng tử tuổi nhỏ chết non, việc ma chay tuy đã đầy đủ lễ nghi, song Hoàng Đế vô cùng bi thương, hạ chỉ truy phong làm “Hiến Huệ thái tử”, vì thế mà bộ Lễ cũng chỉ đành làm tang lễ để truy phong danh hiệu một lần nữa. Còn cái chết của Hoa phi thì dù cật lực che giấu đến mấy, song từ triều đình đến dân chúng lâu ngày cũng nảy sinh đủ loại đồn đãi, nói rằng cô ta vì mưu hại hoàng tử, cho nên bị Hoàng Thượng ban cho tự vẫn. Mà việc ngăn cản những lời đồn đại phát tán, hòng xoa dịu gia tộc Hoa thị, cũng chính là một trong những “hậu sự” cấp bách cần làm.
Lại thêm chuyện mẹ đẻ của hoàng trưởng tử là Hàm phi, từ ngay con trai chết đi thì đầu óc cũng trở nên thất thường, được lúc tỉnh táo lúc lại hồ đồ. Thanh tỉnh thì luôn đau đớn chửi mắng Hoa phi, nguyền rủa cô ta đã hại chết con mình, hết gào khóc xong lại làm loạn, đòi chết. Mà nếu hồ đồ thì ngay cả cái gối cũng cho đó là “Trữ Nhi”, sống chết không chịu buông, ăn hay ngủ cũng đều ôm khư khư không lúc nào rời, quả thực một ngày cũng không để người ta an ổn được.
Hoàng Đế chỉ đành sai người đưa Hàm phi trở lại Tây Trường kinh, đây cũng lại là một việc “hậu sự” khác.
Về Thục phi Mộ thị thì tuy là đã cứu được một mệnh về từ quỷ môn quan, song thân thể suy yếu quá mức. Ngự y mỗi ngày đều phải luân phiên chăm sóc, tình thế lúc nào cũng hung hiểm.
Một ngày, Như Sương hơi thanh tỉnh, nàng mang bệnh nặng trong người, khuôn mặt vốn đã gầy giờ lại càng teo tóp, trông chẳng khác nào hạt hạnh, hai tròng mắt hé mở, đã không còn một nửa vẻ rạng rỡ của ngày xưa. Hoàng Đế thấy nàng cuối cùng cũng tỉnh lại thì hết sức vui sướng. Như Sương như thoáng ngẩn ngơ, bắt gặp khuôn mặt tiều tụy của chàng, muốn đưa tay lên sờ, thế nhưng không đủ sức mà làm. Hoàng Đế vội vàng cúi người xuống, chỉ thấy nàng cười buốn bã, một hồi thật lâu, mới nói:
“Chàng gầy đi.”
Ba tiếng ấy như bông như tơ, nhẹ đến nỗi cơ hồ không có nửa phần sức lực, lại như xoắn cả lục phủ ngũ tạng, mỏng mạnh yếu đuối cùng mỏi mệt làm người ta cảm thấy hoảng hốt dị thường. Trong lòng Hoàng Đế hốt nhiên chua xót, chỉ cười đáp:
“Nàng cũng gầy.”
Như Sương đóng mắt, lại như nặng nề thiếp đi, Hoàng Đế sợ quấy rầy nàng, đang muốn yên lặng đi ra, chợt nghe âm thanh của nàng cực nhỏ, kêu một tiếng “Định Thuần”. Không hiểu vì sao, chàng lại không dám lên tiếng đáp lại, chỉ nghe nàng như đang nói mê:
“Thiếp xin lỗi chàng.”
Định Thuần, thiếp xin lỗi chàng.
Là ai? Từng có những giọt lệ trong suốt, từng đau đớn tuyệt vọng mà nhìn chàng như vậy?
Mưa to làm hơi nước mịt mù xông lên, trông giống như hàng trăm con sông đổ xuống tự chân trời, xuyên qua màn mưa dày đặc, ánh vàng ngọc lưu ly từ cung điện nơi chín tầng mây cũng dần trở nên nhạt nhòa, chỉ như bóng một dải nước sóng sánh dạt dào.
Ngón tay chàng lạnh lẽo, áo gấm long phượng, trong ống tay áo luôn phảng phất một mùi hương ngọt đắng lẫn lộn cùng hơi lạnh, cái lạnh ấy như mang theo dấu hiệu của một cơn mưa, khe khẽ chạm vào trên mặt nàng. Rốt cuộc chàng thở dài:
“Ta chỉ muốn biết, ngần ấy thời gian đến nay, lẽ nào một nửa điểm thật lòng nàng cũng không hề có?”
Nàng không đáp.
Quá khứ như một con sông hiểm độc, mỗi một đường lân quang sóng biếc, lại đều che dấu ở bên dưới những đá vụn lởm chởm. Này những chuyện cũ bén nhọn ấy, càng sinh ra sự lạnh lẽo mà cứng rắn. Chỉ là, trong khoảnh khắc lại tồn tại một sự mềm mại ấm áp, tựa như giữa cơn mưa giăng đầy trời hôm ấy, nàng đột nhiên xoay người trong nháy mắt, để rồi vĩnh viễn ở lại nơi trái tim chàng.
Sự ấm áp như thế, mang theo giấc mơ về hạnh phúc cùng hy vọng bấy lâu, hòa trong nước mưa và nước mắt, mà khuôn mặt ngẩng lên kia, rõ ràng vẫn nở một nụ cười hàm chứa ánh lệ. Ngả vào trong ngực chàng, để mặc cho mưa và lệ thấm ướt cả vạt áo.
Từng đã, gần gũi như vậy, sít sao như vậy, cũng đã từng hạnh phúc.
Có lẽ là nhân sinh hơn hai mươi năm trời của chàng lần đầu tiên tìm được hạnh phúc.
Chưa bao giờ nghĩ mình sẽ đánh mất, cho nên mới không kịp trở tay. Mới có thể khắc cốt ghi tâm, vĩnh viễn còn đau đớn.
Ngỡ rằng mãi mãi sẽ không còn tìm lại được.
Giọng nóicủa Như Sương nho nhỏ, nàng cúi đầu, giống như một chiếc lông vũ nhẹ nhàng bay bổng, không thể nào chống cự sức đưa đẩy của làn gió:
“Ta muốn về nhà.”
Hoàng Đế ôm lấy nàng, nàng gầy ghê gớm, có lẽ chỉ còn lại mỗi da bọc xương, mỏng manh như thể chỉ cần khẽ đụng vào là sẽ vỡ tan. Giọng chàng cũng nhẹ như một tiếng than thở, nói: