Trăng Lạnh Như Sương

Chương 26: Phong sương tuyết nguyệt ai còn nhớ



Trong điện tràn ngập mùi máu tanh lợm, mà bên ngoài cuộc chiến vẫn kịch liệt như trước, thi thoảng còn có vài ba mũi tên lạc bay vào điện, bởi vì khoảng cách quá xa, lưa thưa không đích, rơi xuống trên nền gạch.

Duệ Thân Vương chẳng buồn bận tâm, chỉ chỉ vào xác Hoàng Đế:

“Đem ném ngoài điện đi, xem bọn chúng còn liều mạng làm cái quái gì?”

Lập tức có người tiến đến lôi Như Sương ra, nàng vẫn nắm khư khư góc áo Hoàng Đế, người đó liền rút đao, đang định chém luôn một nhát, nàng đã thong thả đứng lên, giọng nói lạnh lùng như băng giá:

“Lục gia, ngài chẳng lẽ không thừa dịp này mà trốn đi hay sao?”

Duệ Thân Vương kinh ngạc, chợt cười ầm lên:

“Sao ta phải trốn cơ chứ?”

Nàng rốt cuộc xoay người nhìn thẳng vào gã, trâm cài ánh ngọc màu tím lấp lánh đong đưa, sàn sạt một bên mái tóc. Con ngươi nàng cũng loang loáng, dường như còn mang một nét xinh đẹp quyến rũ khó tả:

“Thập Nhất gia thật đúng là chẳng thông minh chút nào, Lục gia chậm chạp không công thành, chẳng phải là còn kiêng kỵ ngòi bút của sử gia gắn cho hai chữ “giết anh” hay sao?  Thập Nhất gia trở mặt một lần này, Lục gia chỉ cần thừa dịp mà tấn công vào thành, ai cũng sẽ không biết Bệ Hạ chết như thế nào, đến lúc đó chỉ có Thập Nhất gia là giơ đầu ra mà gánh tội ác “giết anh” tày trời, còn Lục gia thì cứ ngồi rung đùi mà hưởng “ngư ông đắc lợi”.

Chỉ là, Lục gia không cảm thấy, hết thảy này đây đều quá thuận lợi rồi hay sao? “Bọ ngựa bắt ve sầu, chim sẻ rình sau lưng”, chính là một chiêu tuyệt sát xưa nay vốn có của Hoàng Thượng.”

Nàng chậm rãi gằn từng câu từng chữ:

“Dự Thân Vương giả bại mà đi, anh ta căn bản chẳng hề trúng mai phục, mà chỉ là dẫn xuất đại đội binh, chậm rãi mà dàn thành một lớp giáp sắt bao vây toàn kinh đô này. Cứ cho là Lục gia có ba vạn quân tinh nhuệ, hay là Thập Nhất gia có toàn quyền điều khiển binh mã cửu thành, rốt cuộc cũng chỉ là cá nằm trong chậu mà thôi.

Bởi vì hai vị Vương gia đều là anh em của Hoàng Thượng, nếu như không có tội lớn mưu phản gì, quả thực  chẳng có cách nào nhổ có tận gốc, trừ khử tính mạng của các người. Khả năng nhẫn nại của Hoàng Đế người thường sánh không kịp, liều lĩnh một phen, cũng chỉ chờ cho đến ngày này.”

Như Sương cười lạnh nhạt, nói:

“Hiện thời chỉ e Dự Thân Vương đã vào đến thành rồi, Lục gia nếu còn muốn giữ cái mạng, mau mau mà đào tẩu đi thôi.”

Duệ Thân Vương đột nhiên ngửa mặt cười vang, cười một hồi lâu, mới nói:

“Chỉ bằng cô sao? Ăn vã nói suông mà đòi ta tin rằng Dự Thân Vương có thể khiển binh hùng tướng hậu bao vây kinh đô? Hoàng Đế nếu đã sớm bố trí một chiêu như vậy, làm thế nào còn có ta ngồi chỗ này?”

“Lục gia có thể không tin”

Như Sương chậm rãi nói.

“Kính Thân Vương sẽ không bao giờ giết Hoàng Thượng, lòng dạ cậu ta vốn mềm yếu, dù có di chiếu của tiên hoàng trong tay, bất quá cũng chỉ muốn ép Hoàng Thượng thoái vị mà thôi. Đậy chính là một bước mạo hiểm của Hoàng Thượng, bố trí một tử địa ngầm về sau, tự lấy thân  mình làm mồi nhử, hòng dụ Lục gia ngài một thân một mình mà thuận tiện tiến lên.

Lục gia vốn giết không nổi Hoàng Thượng, bởi không đợi ngài tiến vào cung, đại quân của Dự Vương đã sớm vây siết ba vạn kỵ binh tinh nhuệ của ngài đến một giọt nước cũng không rỉ. Hoàng Thượng quả thực tính toán không sai, chỉ là bỏ sót một điểm... đó là em trai của ta, Mộ Duẫn.”

Đáy mắt Duệ Thân Vương lóe lên ánh nhìn khó đoán, phỏng chừng là đã chợt hiểu ra cái gì:

“Té ra cậu ta chính là thủ lĩnh quân Kỷ Nhĩ Mậu? Làm khó cho cậu ta phải mang cái mặt nạ giả thần giả quỷ rồi.”

Tiếng cười Như Sương khẽ như tiếng thở than:

“Phải, cho nên Dự Thân Vương mới bị trì trệ việc vào thành, là bởi một vạn kỵ binh Kỷ Nhĩ Mậu còn đang cuốn chân anh ta. Dự Thân Vương vốn dụng binh như thần, có lẽ lúc này đã thoát khỏi vướng víu của em tôi, chẳng mấy chốc mà vào đến cung này.”

Như thể là muốn chứng minh cho lời của nàng, ngoài cửa Chính Thanh thình lình dậy lên một trận hò hét như thủy triều tới tấp, tiếng kèn loa vang vọng chốn mù sương, ngay cả băng tuyết tựa hồ đều bị thứ âm thanh nền nã này chấn động, tiếp đó là chuỗi âm thanh nặng nề mà vang vang xa xa  ...  chính là đại đội quân binh của Dự Thân Vương đang dùng khúc gỗ cực lớn mà phá cửa điện Chính Thanh.

Duệ Thân Vương giật nảy lên, phỏng chừng muốn bước xuống khỏi thềm son, nhưng chợt đứng khững lại. Sau cùng, gã hung tợn hỏi:

“Ngươi làm tất cả là vì cái gì chứ?”

Như Sương vẫn điềm tĩnh mà đứng nơi đó:

“Còn các người thì sao? Các người làm tất cả, lại là vì cái gì?”

Duệ Thân Vương thở phì phò, mà Như Sương  ngược lại nở nụ cười:

“Lục gia, nếu nói hôm nay hết thảy này đây đều chỉ vì Lục tỷ, hẳn ngài cũng sẽ không tin. Ngài vì ngôi vị Hoàng Đế, bán đứng Lục tỷ, bán đứng họ Mộ. Lục gia, đây là báo ứng. Trời không làm, vậy ta làm.”

“Đồ điên!”

“Các ngươi mới là đồ điên, bọn đàn ông các ngươi đấy.”

Nàng cười, chỉ về xa xa:

“Vì cái vị trí này, điều gì cũng làm được, cái gì cũng bỏ được. Ngươi đem Lục tỷ dâng cho Hoàng Đế, ngươi đem người mình yêu nhất dâng cho kẻ thù, chỉ bởi vì tham vọng đế vương. Lục tỷ chết rồi, ngươi lại đưa ta vào cung, hao tâm tốn sức, biến bọn ta thành quân cờ, biến bọn ta thành thứ đồ chơi mà tặng cho người. Được lắm, vậy ta đây thay Lục tỷ đem vị trí này tặng cho ngươi, nhưng ngươi không có cái số mà ngồi lên được nửa khắc. Hết thảy giờ này ngày này đều là báo ứng! Báo ứng!”

Tiếng cười sắc nhọn của nàng lởn vởn giữa gian điện, chợt chôn vùi trong  tiếng nổ ầm ầm đinh tai. Cửa điện Chính Thanh cuối cùng cũng đã bị phá, âm thanh như thủy triều ào ào dội vang, long trời lở đất. Nàng đứng ở ngay giữa điện chầu, dáng điệu thướt tha, mong manh yếu đuối như thể bất cứ lúc nào cũng có thể bị thứ âm thanh sóng cuộc triều dâng kia nuốt gọn.

Lần đầu tiên gã nhìn thẳng vào người con gái này, mà nàng, chỉ lẳng lặng đứng yên nơi đó, như một mỏm đá nhô lên giữa dòng chảy xiết, mặc cho sóng cả nước trào, vẫn sừng sững bất động.

Duệ Thân Vương cười lạnh một tiếng:

“Ngươi tưởng lấy đó mà nhục mạ ta sao, làm gì có dễ dàng như vậy!”

Gã ngạo nghễ nói:

“Ta là con yêu của Hưng Tông, có lẽ nào chịu  chết trong tay cái thứ con tạp Hồi Hột đó!”

Giơ kiếm cứa một nhát ngang cổ, rốt cuộc hơi thở tắc nghẹn giữa cuống họng, gã ngã ngồi trên bảo tọa, nặng nề gục đầu xuống.

Máu trườn xuống theo thềm son, nhuộm sắc son càng thêm đỏ tươi diễm lệ.

Như Sương lẳng lặng đứng đó, trời đất chỉ còn lại khoảng không yên ắng tịch mịch, như một thời hồng hoang[1] vẫn còn chưa khai. Ánh tuyết chiếu lên cửa sổ giấy, làn ban mai sáng ẩm, rốt cuộc càng ngày càng tỏ, phương đông hào quang rạng ửng, tuyết lớn rơi liên miên cả một đêm, cuối cùng  đợi hừng đông thức giấc thì cũng đã ngừng.

Dự Thân Vương sau bình minh mới tiến quân vào được thành, một hồi chiến đấu kịch liệt, máu của quân địch đã thắm ướt cả chiến bào của chàng, mà trong lòng chàng nóng như lửa đốt, chỉ thúc ngựa  chạy lồng như điên.

Cổng Vĩnh Môn, cổng Thái Thanh, cổng  Chính Thanh, cung điện nguy nga xán lạn cứ lần lượt hiển hiện trước mắt. Tiếng vó ngựa dồn dập, cả một hoàng thành trống trải tựa như một tòa không thành. Tuyết đã ngừng, chung quanh đều là một màn trắng xóa bạt ngàn, tuyết nhiều như chỉ muốn giấu vào lòng hết thảy, đỉnh ngói vàng lưu ly cũng đều đóng lớp tuyết dày.

Trước cửa điện Chính Thanh to như vậy, ngay cả khoảng tuyết đọng mênh mông trên đường cũng đều bị nhuốm một màu đỏ thẫm, vô số tử thi đều bị chôn vùi phân nửa trong tuyết, bầu không khí sặc mùi máu tanh tưởi  khiến người ta tởm lợm muốn nôn mửa. Chỉ trong vòng một đêm mà toàn bộ chốn hoàng thành phồn hoa nhất thế gian như biến thành cõi Tu La địa ngục trong kinh Phật, thậm chí còn kinh khủng tàn bạo hơn nữa. Mấy hài cốt gãy xương đông cứng vì cái lạnh băng giá, bị vó ngựa phi nước đại đạp cho vỡ vụn, kêu lên răng rắc.

Dự Thân Vương gần như  nhảy phốc xuống lưng ngựa, chạy thẳng một mạch vào bên trong điện Chính Thanh. Thềm son cẩm thạch  đóng một tầng băng mỏng đỏ hồng, ẩn hiện lồ lộ bên dưới những hoa văn vân rồng, khắp nơi đều là xác chết nội quan ngổn ngang chất đống. Cả một tòa đại điện mà chẳng khác nào dưới chín tầng địa ngục, lặng ngắt như tờ.

“Hoàng Thượng! Tứ ca!”

Chàng tựa hồ lảo đảo nhào vào cung Chính Thanh, trong điện không một bóng người, kim loan bảo tọa như cũng phủ một tầng tro bụi mỏng, ghế tựa sơn son thếp vàng đều trở nên u ám và ảm đạm, hun hút lòng điện sâu thẳm vẫn nghe vọng lại âm thanh của chàng:

“Tứ ca... Tứ ca...”

Giữa điện vẫn lởn vởn mùi máu tanh lợm, xác chết trong điện chất càng nhiều, bởi vì mặt đất khô ấm, máu thậm chí còn không đông đặc, cả một tòa cung điện như chìm trong biển máu, ngập đến tận mắt cá chân.

Chàng bắt gặp Triệu Hữu Trí há miệng ngồi xoài chỗ kia, giữa ngực cắm xuyên một mũi tên dài, đã chết cứng từ lâu. Dự Thân Vương chỉ cảm thấy trời đất quay cuồng, giống như phát điên mà tìm kiếm:

“Tứ ca!”

Phía sau lớp lớp mành bạc, hình như có bóng người, chàng thình lình khựng lại ở đó, theo phản xạ  chụp thanh trường kiếm bên hông. Bọn thị vệ đi theo cũng túm tụm vây quanh, làm tấm màng bao bọc cho chàng. Vô số thương dài tên nhọn, nhắm sẵn sàng vào bóng người chậm chạp bước ra từ sau lớp mành.

Nàng vận một bộ đồ hoa, làn váy uốn lượn, giống như đang lội qua một biển máu, sắc mặt tái nhợt đến kinh người, dường như phải gượng hết sức mới có thể nhích nổi bước chân, mà một đôi giày vải điều đen vàng đã sớm bị ngấm máu tươi  ướt rượt.

“Cảm tạ trời đất... “

Nàng nói se sẽ:

“Cuối cùng thì Vương gia đã tới.”

Sau đó thân thể mềm oặt, ngã xuống.

.  .  .

Nàng nằm mơ một giấc mộng thật dài. Mộng về Nguyên Tiêu năm ấy, nàng mười bốn tuổi, đàn bà con gái trong nhà đều đi ngoài phía đông thành xem đốt đèn, mà nàng vì phạm vào gia giới, bị cha phạt không cho đi xem.

Bị nhốt trong nhà như vậy rất bức bối, bên ngoài thì khói lửa đầy trời, khắp thành đều nườm nượp người đi xem đèn, nàng lập tức chịu không nổi, rốt cuộc cùng Tiểu Hoàn gạt bà vú, thay đổi trang phục con trai mà chuồn ra phủ.

Đó là lần đầu tiên nàng ra phủ một mình, tới đầu con phố thì đã bị lạc mất Tiểu Hoàn, song chẳng hề cảm thấy sợ hãi. Tình cờ  mà bước vào một quán rượu thật to, tên là Bạn Hương Các. Vốn đã không còn chỗ, nhưng nàng đưa cho hầu phòng mười lạng bạc, lập tức hầu phòng cũng tìm được cách:

“Trên lầu hai hậu viện còn có một căn gác cực chỉnh tề, vốn đã được một quý nhân trên phủ bao cả tháng, mà hôm nay vương công đại thần đều hầu Hoàng Thượng đi xem đèn, tất sẽ không đến, vậy thì cứ im ỉm tạm nhường cho cậu vậy.”

Gian các chỉnh tề kia, thực sự là một căn gác nhã nhặn yên tĩnh nhất trong Bạn Hương Các. Đối diện với sân sau trồng mấy gốc mai hồng, ở đầu gác còn ngóng ra được xa xa phía đông thành đèn hoa rực rỡ, vô số những đường cung lửa bay lả tả khắp bầu trời như sao sa, cắt xé màn đêm tịch mịch.

“Đêm đông gió thoảng ngàn hoa đưa

Bay lác đác, sao như mưa

Ngựa quý, xe trổ, phố ngát hương

Tiêu phượng thanh thanh

Ngọc Hồ lấp lánh

Đêm này cá lượn rồng bay...”

(Thanh ngọc án – Tân Khí Tật – dịch thơ: Đông Y Lâm)

Từ của cổ nhân, đã ngâm nga cả ngàn lần, mà thời khắc này, mới biết ý thơ kiều diễm phồn hoa kéo đến tận nơi đây, mà nàng lần đầu tiên uống rượu, trong hơi men ngà ngà không nhịn đươc gõ chiếc đũa vào bình[2], cao giọng mà ngâm.

“Mày ngài, tuyết liễu, dải tơ vàng

Cười nói hương đưa thoảng dịu dàng

Tìm nàng chốn ấy trăm nghìn độ

Quay nhìn thảng thốt

Người chỉ có một

Đèn tàn dựa bóng ngóng trông.”

Ngoài mành bỗng có giọng người cất lên tiếp lời, con tim nàng nhảy thịch một cái, hầu phòng đã vén tấm mành sổ, một công tử  anh tuấn khôi ngô, ăn vận trang nhã thong dong bước vào. Mày kiếm mắt sáng, toàn thân toát lên vẻ phong lưu văn nhã như ngọc, một đôi con ngươi đen thẳm hun hút tựa bóng đêm, khiến cho người ta đắm đuối.

Đó là lần đầu tiên trong đời nàng trò chuyện cùng một người xa lạ khác giới, không hiểu vì sao vẫn trấn tĩnh đến ngạc nhiên, có lẽ vì nàng ăn mặc đồ con trai, có lẽ vì lời nói của chàng đậm đà thú vị, có lẽ vì đôi mắt với tròng ngươi đen nhánh sáng ngời của chàng.

Ngày đó, bọn họ nói với nhau rất nhiều chuyện, nàng kể những mẩu chuyện lý thú ngày thơ ấu cho chàng, chàng lắng nghe với một tấm chân tình nồng nhiệt. Nàng đọ rượu với chàng, cuộc kẻ nào bói không ra thi từ liền bị phạt rượu, nàng chưa bao giờ gặp được một người đàn ông nào  học vẫn uyên thâm như chàng, bất luận là cố sự điển tích ra sao, chàng đều có thể thuận miệng mà giảng giải hết sức tự nhiên.

Bọn họ trò chuyện rất lâu, thình lình trong phòng tối sầm như mực, mới biết té ra đèn cầy đã cháy hết. 

Tức khắc ánh tuyết lạnh thanh khiết tràn ngập căn phòng, từa tựa ánh trăng. Trời đất lúc bấy giờ yên ắng không một tiếng động, chỉ có tuyết rơi ngoài cửa sổ rất khẽ, mà khắp mảng tường chăng đầy những bóng hình đan xen, chính là tuyết trắng phản chiếu dáng mai vào phòng, chạc cây đài hoa đều in lên rõ mồn một, hương lạnh ngấm vào tận xương, dường như đầy trời một sắc hoa mai.

“Thơ vạn ý

Chung rượu ngàn

Tước hầu vương nào đáng phải màng?

Lầu ngọc gác vàng lười trở lại

Say Lạc Dương mai nở vừa sang.”

Chàng hướng xa xa mở miệng, ngay đây hoa mai đầy trời ngập đất, cúi đầu nỉ non.

Say Lạc Dương mai nở vừa sang... Một ngày ấy nàng mới biết được, thì ra trên đời còn có người, có thể cùng mình kết bầu tri kỷ, thì ra trên đời còn có người, cùng nàng tâm đầu ý hợp, vui cùng nàng vui, lòng thấu hiểu lòng.

Trước lúc chia tay, chàng rốt cuộc hỏi:

“Dám hỏi, quý  danh của cô nương là gì?”

Là quá đường đột, là kinh ngạc vô cùng, là khiếp đảm, hơn cả là niềm sung sướng hỗn loạn. Thì ra, chàng đã sớm biết, nàng là con gái.

Trong nháy mắt đó nàng đã hiểu, đã hiểu ý tứ của chàng.

Chàng sẽ đến hỏi cưới nàng, chàng hỏi tên nàng, bởi vì chàng muốn đến tận cửa cầu thân. Trong khúc từ sách cổ đều từng xướng như vậy, tài tử  giai nhân, vừa gặp đã yêu. Nàng mới mười bốn tuổi, trong trái tim đắn đo như một chú nai con, nện lên thình thịch. Nàng chưa từng nghĩ  sẽ có một cuộc hội ngộ với con người như vậy, tuổi nàng còn quá nhỏ, nàng chưa từng nghĩ, sẽ sớm gặp được một người như vậy.

Rốt cuộc đời mình, thì ra còn có nhân duyên gặp gỡ một người như vậy.

Giọng nàng lí nhí như muỗi, chung quy  vẫn nói cho chàng:

“Ta họ Mộ.”

Mộ thị trăm năm danh gia vọng tộc, trong họ rất nhiều người làm quan tại triều, sợ chàng đoán nhầm, lại bổ sung thêm một câu:

“Tên húy của thân sinh ta, gọi Thượng Đại Hạ Quân.”

Sau cùng xấu hổ nói ra tên tự của chính mình, bởi vì quá ngượng ngùng, cho nên thanh âm càng như muỗi, nhỏ đến nỗi gần như chẳng nghe thấy gì:

“Ngày đó ta sinh ra, ánh trăng chảy tràn trên đất tựa thanh sương, cho nên tên của ta  ... tên của ta...”

Chỉ một câu nhẹ nhàng như vậy, trong mắt chàng đã bừng sáng rực, nom như vầng hào quang xán lạn phi thường:

“Ta đã biết.”

Chợt, chàng rút thanh đoản kiếm bên người tặng cho nàng. Thanh đoản kiếm này hết sức tinh xảo, trên chuôi kiếm khảm những viên ngọc minh châu, ngay chính giữa bề mặt khắc bốn chữ triện (1 kiểu viết chữ Hán) thếp vàng: “Sống chết ngàn xa”, lật qua mặt kia  lại thêm bốn chữ  ”Cùng người thề nguyện”.

Sống chết ngàn xa, cùng người thề nguyện, nắm tay trọn kiếp, bên nhau đến già.

Nàng xấu hổ đến mức đỏ bừng cả mặt, vội vàng quay đi. Qua đến đầu đường ngoảnh nhìn lại, vẫn thấy chàng đứng lặng dưới ngọn đèn Bạn Hương Các, y phục trang nhã, tuấn tú như ngọc, nhìn nàng, miệng nở nụ cười. Nàng không dám nhìn nữa, chỉ vội vã bước về đằng trước, đầy trời những hạt tuyết li ti, lả tả bay xuống tới tấp. Nàng đi rất nhanh, trái tim cũng đập cực kỳ gấp gáp, khuôn mặt nóng bừng, trong lòng cũng ấm áp.

Bởi vì biết chàng sẽ đến, nhất định sẽ đến.

Ngay mùa xuân năm ấy, Lục tỷ được gả cho Tứ hoàng tử Định Thuần làm trắc phi. Mới đầu cha rất không vừa lòng, nhưng nghe nói Tứ hoàng tử tại điện Dục Thanh quỳ trọn nửa ngày, Hoàng Đế chung quy cũng đã đáp ứng, mà cha lại không thể không chấp thuận. Cho nên cả nhà đều nói, Tứ hoàng tử một lòng si mê như thế, nhất định sẽ không bạc đãi Lục tỷ.

Năm thứ hai cũng có người tới cửa cầu hôn nàng, mà nàng trốn sau tấm bình phong lén nhìn ra, chẳng phải chàng.

Mẹ cũng từng hỏi qua ý của nàng, nàng chỉ cúi đầu quay mặt vách tường không nói, đến lúc mẹ sốt ruột, mới thưa:

“Mẹ, con còn nhỏ...”

Mẹ biết rõ là nàng không vừa lòng, hơn nữa nàng cũng chỉ mới mười lăm, cũng thôi, sau cố tìm một lý do mà khéo léo từ chối đám hỏi kia.

Nàng rốt cuộc vẫn không thể đợi được chàng, mãi đến sau cùng,  tru di tam tộc, một đêm ấy cửa nát nhà tan, nàng cũng không thể nào đợi được chàng.

Nàng chưa từng hỏi tên của chàng, nàng không biết tên chàng.

Nàng nào biết, Định Thuần.

Mà chàng, cũng chẳng biết tên nàng.

Chàng không biết, nàng là Như Sương, ánh trăng thanh thuần, khắp trời như sương.

Chàng chỉ cho rằng, ánh trăng chảy tràn trên đất, chính là lâm nguyệt.

Lục tỷ của nàng, tên tự là Lâm Nguyệt.

Nàng chưa bao giờ nghĩ tới, sẽ xảy ra một sự hiểu lầm như vậy, để rồi đánh mất.

Nàng luôn luôn chờ, cứ ngỡ rằng sẽ đợi được chàng, cho đến tận ngày tru di tam tộc, thời điểm ở trong ngục giam, nàng vẫn từng nghĩ, không biết cuộc đời này, có hay không cơ hội gặp lại chàng.

Nàng luôn cho rằng, chàng thực sự sẽ đến, nhất định sẽ đến, bởi vì nàng hiểu, chàng thật lòng hứa hẹn, chàng sẽ đến.

...

Nàng cũng không biết thì ra là chàng, mà chàng lại càng không biết thì ra chính là nàng.

~ HẾT~

********************************

[1]Thời hồng hoang: thời kỳ đất trời chưa hình thành như truyền thuyết Nữ Oa vá trời^^

[2] “Kêu nửa ngày, chẳng hiểu sao vẫn không nghe ai trả lời, chàng bỗng nhiên nổi hứng, cầm đũa gõ vào cái đĩa, hòa thanh cùng gió tuyết ngoài cửa sổ kia... Đoạn ngửa mặt cười sảng khoái, một đôi con ngươi sáng ngời, dưới bóng đèn tựa như đêm thâu chưa vãn, đen thẳm sâu hút khôn lường, lấp lánh hào quang muôn ngả, tựa hồ có vật gì chợt vỡ tan...” (Chương 24) TT hic thì ra là anh nhớ đến ngày đầu tiên gặp chị đây mà, ký ức đẹp như thế  .

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.