Đằng Huy Nguyệt không hiểu biết nhiều lắm về chi trưởng Đằng gia ở Đan Dương, chỉ nhớ rõ ở kiếp trước, tộc trưởng đời tiếp theo của chi trưởng, Đằng Phong Dự, có quan hệ không tồi với a cha Đằng Kỳ Sơn.
Sau này, chi trưởng phát triển rất tốt ở Kiến Khang. Đầu tiên là nhi tử duy nhất của nhị chi trong chi trưởng, Đằng Phong Lễ, cưới nữ nhi của Giang Hoa Quận chúa Tề Chi, Gia Nhu Huyền chủ Vương Tú Quyên ____ Chuyện này khiến cho kế phu nhân Tề Trân hoàn toàn không còn tươi cười với nhị chi thuộc chi trưởng. Sau đó là văn tử đệ đệ thứ xuất của Đằng Văn Trì, Đằng Văn Kỳ, gả cho Tam Hoàng tử Tề Minh Dũng làm Vương phi. Chuyện khi đó hơi ồn ào một chút. Thật ra đối tượng mà Đằng Anh muốn liên hôn là Đại Hoàng tử Tề Minh Diệu, người có hy vọng cao nhất giành được đế vị; hắn định gả tôn nữ đích xuất Đằng Văn San tài sắc vẹn toàn cho Tề Minh Diệu. Chỉ là hắn còn chưa kịp bày tỏ ý định này, Tam Hoàng tử Tề Minh Dũng đã để ý đến Đằng Văn Kỳ trước.
Tính cách của Tề Minh Dũng không giống sinh phụ Minh đế lắm, ngược lại có chút giống Nhữ Nam Vương Tề Lương hồi trẻ hơn, cố chấp không thể lay chuyển, đã thừa nhận cái gì là không buông tay. Hắn căn bản không có quan hệ gì với đế vị, nhưng chung quy cũng là long tử phượng tôn; sinh mẫu Đặng phi của hắn không lớn tiếng ở hậu cung, nhưng cũng là một trong những phi tần có thực quyền, địa vị vững như bàn thạch. Đằng Anh ngàn vạn lần không dám đắc tội với hai mẹ con họ. Nhưng một khi đã kết thân với Tề Minh Dũng, chẳng khác nào cắt đứt con đường gả nữ hài cho Hoàng tử khác. Minh đế và các đại thần sẽ không để các Hoàng tử đều cưới nữ tử văn tử của Đằng gia.
Hơn nữa Đằng Văn Kỳ chẳng những là thứ xuất, còn là văn tử khó sinh con, xét về thân phận căn bản không xứng với Tề Minh Dũng là Hoàng tử, cùng lắm chỉ có thể trở thành thiếp thị, ngay cả Quý thị cũng không đủ tư cách. Nhưng đường đường là con cái của Đằng gia mà phải làm thiếp thị, bất luận là chi trưởng của Đằng gia hay phủ An Quốc công cũng đều không còn mặt mũi. Đằng Anh sợ đắc tội với phủ An Quốc công, bèn có ý để Đằng Văn San xuất giá thay Đằng Văn Kỳ.
Thế nhưng Tề Minh Dũng chỉ chấp nhận Đằng Văn Kỳ. Trong số những người cùng trang lứa của chi trưởng Đằng gia ở Đan Dương, Đằng Huy Nguyệt cũng chỉ có ấn tượng tốt với Đằng Văn Kỳ, trong lúc chuyện đang ầm ĩ thì nổi hứng thú, nói với Trịnh Thái hậu và Minh đế một câu “A Kỳ rất tốt đó”. Xưa nay Đằng Huy Nguyệt luôn mặc kệ mấy chuyện này, hiếm khi cậu lên tiếng nói vậy, Trịnh Thái hậu và Minh đế đều quan tâm đến. Sau đó không lâu, Trịnh Thái hậu và Đặng phi triệu Đằng Văn Kỳ vào cung, sau khi gặp mặt một hồi, Trịnh Thái hậu hạ ý chỉ tứ hôn.
Tiếp đó, Tề Minh Diệu được sắc lập làm Thái tử, Đằng Huy Nguyệt gả cho hắn. Lúc ấy Đằng Văn San vẫn chưa xuất giá, ở trong ngày đại hôn của Đằng Huy Nguyệt đã từng liếc nhìn cậu từ phía xa. Không biết tại sao, Đằng Huy Nguyệt nhớ rất rõ ánh mắt của nàng, một ánh mắt làm cậu vô cùng không thoải mái. Hơn nữa, cậu gả cho Tề Minh Diệu ba năm mà không có con, Tề Minh Diệu nạp thiếp lại chính là Đằng Văn San.
Vì rất nhiều nguyên nhân, Đằng Huy Nguyệt không thể thích nổi chi trưởng của Đằng gia.
Thế nhưng mặc dù thân phận của Đằng Huy Nguyệt rất cao, nhưng cậu là văn tử, lại còn ít tuổi, cậu có bất đồng ý kiến với An Quốc công Đằng Hải, ngăn cản chi trưởng đến Kiến Khang, cũng chẳng có ai đồng ý với cậu, chỉ cho rằng cậu ồn ào vì tính khí trẻ con. Hơn nữa, quả thật cảm giác mà chi trưởng cho cậu không tốt lắm, nhưng rốt cuộc có thật sự làm ra chuyện gì bất lợi cho cậu không thì cũng không biết để mà đề phòng. Cậu không thể vì một lý do vô căn cứ, võ đoán mà làm ảnh hưởng đến mối giao hảo của a cha Đằng Kỳ Sơn với tộc trưởng đời tiếp theo Đằng Phong Dự.
Ăn cơm xong, các nam nhân đến đại sảnh nói chuyện, An Quốc công Đằng Hải tự mình kiểm tra tài học của con cháu chi trưởng. Nội quyến thì vào phòng trong nói chuyện nhà. Phu nhân lão An Quốc công Nghiêm thị không gặp được lão phu nhân Thiệu thị của chi trưởng, không có cơ hội để diễu võ dương oai, tinh thần hơi kém một chút. Nàng không kiên nhẫn nghe mấy tiểu bối nói chuyện, rồi rời đi trước. Những người còn lại thì nói nói cười cười. Tiểu Thiệu thị khen ngợi Đằng Huy Nguyệt ở bên cạnh Phúc Khang Trưởng Công chúa Tề Mẫn một hồi, rồi lại kéo tay Đằng Kỳ Dật nói lời tán dương.
Đệ tức của nàng, Triệu Kính, luôn mang nụ cười ôn hòa trên mặt, dựa theo lời tiểu Thiệu thị nói chuyện, thường thường cũng bổ sung thêm đôi ba lời thích hợp, khiến người ta thấy như gió xuân thổi qua.
Đối với chuyện này, Đằng Huy Nguyệt không có thái độ gì, còn Đằng Kỳ Dật vốn có chút không kiên nhẫn – Hắn cảm thấy người của chi trưởng không khác gì với những kẻ đến phủ An Quốc công cầu xin, chả muốn quan tâm đến bọn họ, nhưng sau khi nghe được mấy câu khen ngợi lại cảm thấy êm tai, có chút đắc ý hất hàm lên, liếc Đằng Huy Nguyệt một cái.
“… Nếu mấy con khỉ nhà ta hiểu chuyện bằng một nửa A Dật, ta đã cảm tạ trời đất!” Tiểu Thiệu thị cầm khăn che miệng, cười nói.
Tề Trân hiếm khi thấy ai khen ngợi Đằng Kỳ Dật vào những lúc cùng có Đằng Kỳ Dật và Đằng Huy Nguyệt ở đây, trên mặt lộ ra nụ cười vui vẻ: “Tỷ nên dẫn chúng đi nhiều nơi một chút. Gặp nhiều người rồi, dần dần sẽ hiểu chuyện hơn.”
Tiểu Thiệu thị nói: “Vốn cũng muốn dẫn chúng đến bái kiến thẩm tử. Thế nhưng hôm nay vội quá, lão gia không cho chúng tới để thêm loạn. Hôm khác ta sẽ dẫn chúng tới.”
Tề Trân nói: “Hai nhà chúng ta phải qua lại nhiều một chút, A Dật cũng cần có người chơi cùng mà.”
Triệu Kính nói: “Quý phủ chỉ có Ung chủ điện hạ và A Dật xấp xỉ nhau, đúng là hơi vắng vẻ. May mà Công chúa điện hạ sắp cho quý phủ thêm người, cũng có thêm niềm vui!”
Phúc Khang Trưởng Công chúa Tề Mẫn đang chậm rãi ăn cháo bột dưỡng thai tiêu thực, cũng không nói nhiều. Qua lần nói chuyện này, nàng cũng có chút ấn tượng với tiểu Thiệu thị và Triệu Kính. Ít ra khi đối mặt với một Tề Trân luôn tỏ vẻ cao hơn người một bậc, hai người không có tức giận, có lấy lòng hay phụ họa cũng làm không tồi, không làm người ta cảm thấy giả tạo.
Tề Mẫn nói: “Có một mình A Việt, bản cung và Thế tử đã cảm thấy thỏa mãn. Bây giờ có thêm một đứa, cũng để A Việt có thêm người chơi cùng.”
Đằng Huy Nguyệt ngẩng đầu lên nói: “A nương, con sẽ thích đệ đệ.”
Tề Mẫn đã sớm quen cậu cứ đặt “đệ đệ” ngay bên miệng, chọc vào mũi cậu cười nói: “Phải, A Việt của chúng ta nhất định là một ca ca tốt.”
Đằng Huy Nguyệt hơi ưỡn ngực lên, gật đầu thật mạnh. Tề Mẫn yêu thương ôm vai cậu.
“Ung chủ điện hạ đúng là một đứa trẻ ngoan.” Tiểu Thiệu thị khen.
“Tất nhiên A Việt rất ngoan.” Tề Mẫn không hề che giấu sự kiêu ngạo của mình về Đằng Huy Nguyệt.
Tiểu Thiệu thị và Triệu Kính đều cười, phụ họa thêm không ít lời hay.
Tề Trân rũ mắt ngắm nghía móng tay được cắt sửa tinh xảo của mình, nói như vui đùa: “Còn không phải sao? A Việt thường sống trong cung, quan hệ rất tốt với các Hoàng tử điện hạ trong cung, ít khi chơi cùng trẻ con trong phủ. Lần trước đại điện hạ và tứ điện hạ đến phủ, A Dật muốn chơi cùng cũng bị lạnh nhạt.”
Tề Mẫn như cười như không: “Kế phu nhân đang oán trách mấy đứa A Việt không chơi cùng A Dật sao? Tạm thời không nói đến bối phận khác biệt, nếu kế phu nhân không ngại, để A Dật làm thư đồng của A Việt, cùng vào cung đọc sách, sao nào?”
Tề Trân cứng người lại, có thể tưởng tượng ra được nếu Đằng Kỳ Dật hạ thấp làm thư đồng cho Đằng Huy Nguyệt kiêu căng bá đạo, Đằng Huy Nguyệt làm sai chuyện gì Đằng Kỳ Dật phải chịu phạt thay, trong lòng không hề muốn. Làm sao nàng có thể giao Đằng Kỳ Dật vào tay bọn họ, mặc cho bọn họ giày vò?
Đằng Kỳ Dật kêu lên đầu tiên: “Ta không muốn!” Hắn đọc sách ở phủ An Quốc công, Tề Trân sợ hắn chỉ có một mình sẽ không có tinh thần, cố ý tìm mấy đứa con của người hầu làm thư đồng. Đằng Kỳ Dật đã không ít lần sai khiến bọn chúng như hạ nhân, dù sao bọn chúng vốn là con cái của hạ nhân. Trong lối suy nghĩ của hắn, thư đồng chính là hạ nhân. Muốn hắn làm hạ nhân cho Đằng Huy Nguyệt, không có cửa đâu! Cho dù có muốn gặp Đại Hoàng tử Tề Minh Diệu tuấn tú tao nhã đang ở trong cung, nhưng đối với một tiểu văn tử mới bảy tuổi mà nói, Tề Minh Diệu vẫn chưa đủ sức hấp dẫn để Đằng Kỳ Dật luồn cúi trước Đằng Huy Nguyệt vì hắn.
“A Dật!” Tề Trân vội quát khẽ một tiếng, không để hắn thất lễ trước mặt Tề Mẫn, rồi nói với Tề Mẫn: “Đa tạ ý tốt của Công chúa điện hạ. Tính tình A Dật ngay thẳng, chỉ sợ không thích hợp.”
“Vậy thì, bỏ đi.” Tề Mẫn mỉm cười phớt lờ, xoa bả vai Đằng Huy Nguyệt một chút.
Tiểu Thiệu thị và Triệu Kính lặng lẽ nhìn nhau, lại làm như không có chuyện gì xảy ra, tiếp tục trò chuyện vui vẻ.
…
Từ phủ An Quốc công cáo từ quay về đại trạch ở thành tây, Đằng Anh và Đằng Hồng đều dẫn tức phụ, nhi tôn của mình về phòng.
Sau khi đóng cửa lại, Đằng Anh vội vã hỏi thê tử tiểu Thiệu thị: “Sao rồi?”
Đến cả tiểu Thiệu thị luôn điềm tĩnh, hai mắt cũng sáng ngời: “Phúc Khang Trưởng Công chúa và Ung chủ điện hạ, có quan hệ rất tốt trong cung.”
Quan hệ thân thiết với Hoàng tử, chuyện đưa mấy đứa trẻ vào cung nói đưa là đưa… Nếu trẻ con trong nhà có thể được Công chúa và Ung chủ ưu ái, đây tuyệt đối là chuyện chỉ có lợi chứ không hề có hại!
Kế phu nhân Tề Trân cố tình nhắc tới chuyện Đằng Huy Nguyệt giao hảo với các Hoàng tử, không chơi với Đằng Kỳ Dật, đó là ám chỉ Đằng Huy Nguyệt kiêu ngạo hống hách, khinh thường bọn họ, không phải là đối tượng để bọn họ cậy quyền. Nhưng so sánh với Phúc Khang Trưởng Công chúa Tề Mẫn, lời lẽ của Tề Trân lúc nào cũng coi nàng và con nàng là trung tâm giống như có vẻ nàng cao cao tại thượng hơn.
Mà Nguyên Trưng Ung chủ Đằng Huy Nguyệt bình thường giống y như búp bê, quả thật có xa cách với các nàng, nhưng cậu lại chăm sóc Phúc Khang Trưởng Công chúa Tề Mẫn giống một tiểu đại nhân, làm người ta hoàn toàn không thể có ác cảm với cậu. Vẻ lãnh đạm của cậu đối với mấy người kia cũng không làm người ta khó chịu như ánh mắt ngạo mạn của Đằng Kỳ Dật.
Huống hồ Phúc Khang Trưởng Công chúa và Nguyên Trưng Ung chủ có thân phận tôn quý, dù Tề Trân có ủy khuất cũng phải biết cách chấp nhận. Thế nhưng Tề Trân chỉ là phu nhân Quốc công không có phẩm cấp gì, nếu không phải người ta nể mặt An Quốc công và Phúc Khang Trưởng Công chúa, có ai coi nàng như một chuyện to tát chứ?
Đằng Anh thăm dò: “Còn bên phía phu nhân Quốc công?”
Tiểu Thiệu thị lắc đầu không hề do dự: “Vị kia là kế phu nhân.”
Đầu tiên là một tiếng “kế phu nhân”, sau đó là Phúc Khang Trưởng Công chúa bâng quơ nói một câu như muốn đề nghị đưa Đằng Kỳ Dật vào cung, đạo lý trong đó đã được nói ra rất rõ ràng. Kế phu nhân bất hòa với phủ Công chúa, nhưng không có quyền thế bằng một nửa phủ Công chúa, bên nào nặng bên nào nhẹ, có thể hiểu ngay!
Đằng An vuốt râu, chần chừ: “Nhưng mà Nhữ Nam vương phủ…”
“An Quốc công Thế tử mới là đích ngoại tôn của Nhữ Nam vương phủ.” Tiểu Thiệu thị nhắc nhở.
“A Hải cũng rất nồng nhiệt với A Dự và A Lễ.” Đằng Anh lại nói. “Thế nhưng A Cương…”
Tiểu Thiệu thị vô cùng bất đắc dĩ đối với tính tình luôn do dự ở thời khắc then chốt sau khi đã suy nghĩ chu đáo của Đằng Anh. Nếu hắn không có khuyết điểm này, thành tựu hiện nay chỉ sợ không dừng ở đây.
Dù sao thì, không quan tâm Đằng Anh lựa chọn thế nào, nàng đã quyết định sẽ dẫn tức phụ và tôn nhi đến phủ An Quốc công nhiều lần, nếu có cơ hội, thậm chí nàng sẽ đến phủ Công chúa. Không biết chừng có một ngày, tôn nhi của nàng sẽ được quý nhân vừa ý, từ đó một bước lên mây, thuận lợi thăng quan tiến chức!
…
“… Từ xưa đến nay, bất hoạn quả nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần nhi hoạn bất an(1). Dù là phủ An Quốc công hay phủ Công chúa, đối với đại chi và chúng ta, tạm thời phải đối đãi như nhau. Phủ Công chúa có thế lớn, bên phía kế phu nhân tuyệt đối không được lợi. Chúng ta nên nhanh chóng nhờ đến họ, tranh thủ cho hôn sự của A Lễ…”
Ở bên phía nhị chi, Đằng Hồng ôm tức phụ Triệu Kính vào lòng, nghe người trong lòng dùng giọng nói bình tĩnh êm tai nói mấy câu.
Đằng Hồng không tập trung cứ ậm ừ đáp lời, lặng lẽ luồn một tay vào trong quần áo Triệu Kính, bận bịu sờ đông sờ tây.
Triệu Kính đỏ mặt, buồn bực nói: “Tên đần này, rốt cuộc có nghe ta nói gì không?”
“Nghe rồi! Nghe rồi! Phu nhân nói rất phải! Cứ làm như lời phu nhân nói!” Đằng Hồng trả lời rất trôi chảy.
Triệu Kính tức muốn ngã người, hung dữ nhéo hắn mấy cái, đâu còn vẻ nhã nhặn ôn hòa như ở phủ An Quốc công vừa rồi?
Đằng Hồng thấy vậy, dùng luôn kế sách đánh rắn tùy côn, cắn vào vành tai ngọt ngào của thê tử, mơ hồ nói: “Ngươi cứ thoải mái một chút. Chúng ta chỉ có một mình A Lễ, không mong nó có quyền thế, đại phú đại quý, chỉ mong nó bình an vui vẻ, khỏe mạnh an khang, cưới một tức phụ nhi tốt như văn cha của nó, sinh được mấy Tiểu A Lễ… A Kính, ngươi nói được không?”
Sắc mặt Triệu Kính ôn nhu dần, nhưng trên miệng vẫn có chút không được tự nhiên: “Mới không cần giống ta, mười năm mới có được một nhi tử…”
Triệu Kính thông minh hiền đức, thế nhưng hắn chịu ảnh hưởng từ mẫu thân coi lễ giáo như mạng sống, rất tin tưởng “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”. Sau khi gả cho Đằng Hồng, bởi vì khoảng chừng mười năm không sinh được con, dưới áp lực của mẫu thân và bà bà, hắn nạp một thiếp cho Đằng Hồng, nhưng người thiếp này sinh ngay được ba nữ nhi. Triệu Kính muốn nạp thêm thiếp cho Đằng Hồng, đến lượt Đằng Hồng cương quyết mặc kệ. Hai vợ chồng ầm ĩ một trận lớn, ầm ĩ đến nỗi Triệu Kính tức giận rồi ngất xỉu, Đằng Hồng sợ tới mức chỉ kém không mổ bụng tạ tội. Nhưng khi mời đại phu đến bắt mạch, hai người đều ngây ngốc! Bởi vì Triệu Kính đã có thai hơn hai tháng!
Như thế hai vợ chồng mới dừng lại, cẩn thận nuôi dưỡng cái thai này. Sau đó Triệu Kính thuận lợi sinh được một nhi tử đủ tháng nặng tám cân(2), chính là Đằng Phong Lễ. Trong nhà có hậu duệ rồi, Triệu Kính yên lòng yên dạ, không ép buộc Đằng Hồng nạp thiếp nữa. Đằng Hồng âm thầm thở phào nhẹ nhõm.
Khó khăn lắm, đợi đến khi ba thứ nữ đến tuổi cập kê rồi gả hết ra ngoài, người thiếp kia cũng được một thứ nữ gả vào một quý phủ đưa về chăm sóc, cuối cùng Đằng Hồng mới được như mong muốn, trải qua những ngày tháng gia đình ba người sống cùng nhau. Không lâu sau đó lại có cơ hội rời khỏi Đan Dương, Đằng Hồng tức khắc thu dọn hành lý, đóng gọi tức phụ và nhi tử lại, đi khỏi Đan Dương. Triệu Kính còn tưởng hắn rốt cuộc cũng có ý chí vươn lên, muốn nhân cơ hội này để đến Kiến Khang thi triển quyền cước.
Thật ra thì Đằng Hồng chỉ muốn nhanh chóng “thanh lý” nhi tử ra ngoài, để trải qua những tháng ngày chỉ có hai người cùng thê tử.
Triệu Kính là văn tử, rất khó mang thai, lúc Đằng Hồng cưới hắn đã có chuẩn bị tâm lý. Dù sao thì người hắn thích chính là Triệu Kính, chính là văn tử đáng yêu vừa thông minh vừa cổ hủ này!
Vậy mà cứ vì chuyện nối dõi tông đường, không chỉ mẫu thân ép buộc hắn, nhạc mẫu ép buộc hắn, ngay cả thê tử vốn nên đứng cùng chiến tuyến với hắn cũng ép buộc hắn, khiến cho Đằng Hồng có khổ mà không thể nói.
Hắn phải dùng đến khoảng chừng hai mươi năm để thay đổi một vài cách nghĩ của Triệu Kính, không thích nghe nhất chính là Triệu Kính nhắc lại chuyện cũ. Ngay lập tức bế ngang Triệu Kính lên, ném xuống giường, tha hồ “trừng phạt” một hồi!
“Lại nói vớ nói vẩn! Thê tử của ta là hiền lành hết mức! Ngươi dám nói xấu hắn, xem vi phu xử lý ngươi thế nào!”
Triệu Kính ngượng đến nỗi mặt mũi đỏ bừng, không hiểu tại sao phu quân của hắn đã đến tuổi trung niên rồi, cứ mở miệng ra là không suy nghĩ gì hết, cái nhu cầu kia lại còn tăng nhanh như vậy! Trong lúc nhất thời có chút hối hận vì để người thiếp kia ở lại Đan Dương. Nhưng sau khi hối hận xong, lại là hương vị thỏa mãn và ngọt ngào như đường…
__Hết chương 30__
(1) Bất hoạn quả nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần nhi hoạn bất an: Không sợ thiếu, nhưng sợ phân chia không công bằng; không sợ nghèo, nhưng sợ không được an lạc.
(2) Tám cân: Bằng 4kg. Đơn vị cân của Trung Quốc gấp đôi đơn vị kilogram của quốc tế – cũng là cách nói cân như tiếng Việt mình.