[1] Trích trong bài Kích cổ (Gióng trống) trong Kinh Thi (ND)
Tòa cung điện này dựng nên vì Đồng Ngư, nhưng cả ngàn năm nay, ông chưa hề
cùng Đồng Ngư sánh vai ngắm nhìn trăng sáng, ông đã không còn là ông năm ấy, nàng cũng không còn là nàng khi xưa, sánh vai cùng ngồi còn ý nghĩa gì nữa chứ. Có điều, chẳng rõ tại sao, sau một ngày mệt mỏi, ông luôn
thích nằm dài ở đây, ngắm nhìn trăng sáng, dưới ánh trăng mờ ảo ấy, có
ông một thời trẻ trung sôi nổi, còn có cả một thiếu nữ có thể làm chứng
cho thời niên thiếu sôi nổi của ông. Có điều thời gian đằng đẵng xóa
nhòa tất cả, ông đã chẳng còn phân rõ được người con gái mình nhung nhớ
là ai, là cô gái yểu điệu run lên trong lòng ông, hay nàng thiếu nữ ngạo nghễ băng qua ánh trăng vằng vặc bước đến trước mặt ông, hay đều không
phải?
A Tệ kêu lên một tiếng, nhắc A Hành rằng đã đến Triêu Vân phong.
A Hành lòng như dao cắt, chẳng còn dũng khí nào bước vào Triêu Vân điện,
nhưng tin Chúc Dung và Xương Ý cùng chết chẳng bao lâu sẽ truyền khắp
đại hoang, nàng không muốn để kẻ khác thông báo tin này cho mẹ. Nếu phải báo, chi bằng để nàng chính miệng báo với bà.
Nàng ôm Xương Phó bước vào Triêu Vân điện đúng lúc Luy Tổ đang dạy Chuyên Húc đọc sách.
Nghe tiếng bước chân, bà mỉm cười ngẩng lên, trông thấy bộ dạng A Hành,
bà liền biến sắc.
Chuyên Húc chạy nhao đến, “Mẹ, mẹ con làm sao thế? Cha đâu? Sao cha không về?”
Luy Tổ dịu giọng dỗ Chuyên Húc: “Con ra ngoài chơi đi, để người lớn nói chuyện.”
A Hành quỳ xuống trước mặt mẹ, môi run lên bần bật mà không thốt nổi nên
lời. Giờ đây, cuối cùng nàng cũng hiểu được càm giác tuyệt vọng và tự
trách của Đại ca khi quỳ trước mặt mẹ năm ấy.
Luy Tổ tái mét
mặt, ngồi lặng giây lát, đột nhiên bà đứng phắt dậy, ôn tồn nói: “Con đi rửa mặt thay áo trước đi, để ta chăm sóc Xương Phó.”
“Mẹ…”
Luy Tổ xua tay: “Rửa mặt thay áo sạch sẽ rồi từ từ nói.”
A Hành vội vã rửa mặt rồi tới gặp mẹ. Xương Phó đã được thay y phục, đang nằm trên giường thiêm thiếp ngủ. Luy Tổ ngồi bên giường hai tay cầm
chiếc áo của Xương Ý, dịu dàng vuốt đi vuốt lại.
A Hành khẽ khàng bước vào, quỳ xuống bên gối bà.
Luy Tổ khẽ hỏi: “Xương Ý anh dũng lắm phải không? Nó không bỏ lại thuộc hạ mà chạy thoát một mình chứ?”
A Hành nghẹn ngào, nói chẳng nên lời, chỉ có thể gật đầu. Luy Tổ mỉm cười, “Giỏi lắm, giống như ông ngoại nó vậy!”
“Mẹ!” A Hành nắm lấy tay bà, “Nếu mẹ đau lòng thì cứ khóc đi!”
Luy Tổ xoa đầu A Hành, dung nhan khô héo, thân tình tiều tụy, chỉ có đôi
mắt là sáng rỡ, dường như tất cả sức lực còn lại đều kết tinh trong mắt, “Con ở đây trông chừng Xương Phó, tính nó cương cường, cứng quá thì dễ
gãy, để ta đi thăm Chuyên Húc. Ta không muốn nó nghe ngóng tin cha nó từ miệng người khác, cha nó đã hy sinh anh dũng, phải đường đường chính
chính nói cho nó biết.”
Luy Tổ cẩn thận gấp manh áo của Xương Ý
lại, đặt bên gối Xương Phó rồi loạng choạng bước ra ngoài, ra đến rừng
dâu, bà kéo tay Chuyên Húc, “Bà nội có chuyện muốn nói với cháu.”
Một già một trẻ lững thững thả bộ trong rừng dâu. Bước chân Luy Tổ loạng
choạng, lưng còng gập xuống, nhưng bà vẫn là chỗ dựa tinh thần của tất
cả đám trẻ.
“Xương Ý!”
Xương Phó vừa tỉnh giấc liền kêu thét lên, giơ tay ra chụp, nhưng chỉ chụp vào khoảng không.
A Hành đang đứng bên cửa sổ nhìn về phía Luy Tổ và Chuyên Húc, lập tức ngoảnh lại: “Tẩu tẩu.”
Xương Phó nhìn quanh, nhận ra bọn họ đang ở trong Triêu Vân điện: “Còn Xương Ý? Xương Ý đâu rồi?”
A Hành chẳng biết đáp sao cho phải. Xương Phó chằm chằm nhìn A Hành, tựa
hồ đang cầu khẩn nàng ban cho mình chút hy vọng, ánh mắt ấy như một lưỡi dao nhọn, chốc chốc lại đâm vào tim A Hành khiến nàng đau đến không thở nổi, cũng không cách nào né tránh, bởi càng né tránh lại càng đau.
“Tứ ca, Tứ ca…” A Hành lúng túng, nói không nên lời.
Trông thấy chiếc áo đặt bên gối, ánh sáng trong mắt Xương Phó vụt tắt lịm,
nàng nắm lấy vai A Hành lắc như điên dại, gào lên: “ Sao muội lại bỏ
chạy một mình? Sao muội không cứu y? Y là Tứ ca của muội, sao muội không cứu y…” A Hành như một phiến lá vàng quay cuồng trong gió lớn, hoàn
toàn không thể tự chủ, chỉ cần mạnh thêm chút nữa, có lẽ sẽ bị cuồng
phong nghiền nát.
Xương Phó lắc lắc A Hành, thân thể chợt nhũn
ra, đột nhiên nàng gục đầu vào vai A Hành, khóc ngất, “Vì sao? Vì sao…”
Vì sao? Rõ ràng họ đã thề phu thê một lòng, cùng sống cùng chết, vì sao y không giữ lời thề, bỏ lại nàng một mình?
Nháy mắt trước đây
thôi, y còn ôm nàng, hôn nàng, khiến nàng chìm trong hạnh phúc ngọt
ngào, vậy mà giờ y đã tan xương nát thịt, tất cả đều thành mây thành
khói. Nàng không tin! Xương Ý chưa chết, nhất định chưa chết!
Tiếng khóc của Xương Phó dần biến thành tiếng gào nát gan xé ruột, như một
con thú đang rên rĩ khóc than. A Hành cũng không nén nổi nữa, nước mắt
tràn ra như vỡ đê, nhưng nàng không dám khóc thành tiếng, đành mím chặt
môi, gắng hết sức ưỡn lưng thật thẳng, không cho phép mình gục xuống.
Xương Phó khóc đến tan lòng nát ruột, bi nộ công tâm, ngất lịm đi.
A Hành không dám thả lỏng bản thân mà thương tâm khóc lóc, vội lau khô nước mắt, chăm non cho Xương Phó.
Luy Tổ dắt tay Chuyên Húc bước vào, chỉ một chốc lát ngắn ngủi, vậy mà
Chuyên Húc dường như đã đột ngột lớn bổng, gương mặt bé bỏng đanh lại,
nước mắt thập thò trên mi nhưng nó vẫn quật cường nín nhịn, nhất quyết
không khóc, kìm nén đến nỗi đỏ bừng cả mặt.
Chuyên Húc đứng bên giường chạm tay vào mặt Xương Phó, vẻ mặt rất nghiêm trọng.
Luy Tổ bảo A Hành: “Con kể lại đầu đuôi mọi chuyện đi.”
Thấy A Hành chần chừ nhìn Chuyên Húc, Luy Tổ nói: “Hiện giờ nó là nam đinh
duy nhất trong nhà ta, bất kể nó hiểu được đến chừng nào, cũng phải để
nó nghe!”
Nhận ra ý tứ của Luy Tổ, A Hành chợt táo mặt: “Đại ca, còn Đại ca nữa mà!”
Luy Tổ bình thản nói: “Các con tưởng ta không biết ư? Thanh Dương là do ta
sinh ra, một tay ta nuôi nấng từ nhỏ đến lớn. Hành nhi, con có thể không nhận ra con gái con không? Đó là núm ruột của con, nó cau mày hay nhoẻn miệng con đều rõ như lòng bàn tay. Vậy mà con và Xương Ý lại dám lớn
gan giấu trời qua biển, nghĩ ra kế sách này.”
A Hành vội giải thích: “Mẹ, con, con… không phải tại Tứ ca, là tại con.”
“Ta hiểu nỗi khổ của các con, các con sợ ta đau lòng, sợ ta không chịu nổi, có điều các con xem thường mẹ mình quá. Hiên Viên quốc có ngày nay cũng là do ta một tay tạo dựng, tuy hiện giờ ta chẳng thể ra trận nữa, nhưng không có nghĩa là ta đã hồ đồ.”
A Hành quỳ xuống bên gối Luy
Tổ, Luy Tổ quay sang bảo Chuyên Húc: “Cháu nghe cho kỹ, chỗ nào không
hiểu cũng đừng hỏi, chỉ cần nhớ kỹ là được.”
A Hành bắt đầu
thuật lại đầu đuôi câu chuyện, từ khi nàng phát hiện ra sự việc có điểm
dị thường, phái Liệt Dương đưa thư về Hiên Viên cầu cứu, mượn binh Cao
Tân, bị Thiếu Hạo cự tuyệt, cho đến khi Chúc Dung đem thân làm trận
nhãn, dẫn cho núi lửa bùng nổ.
Luy Tổ từ đầu đến cuối không nói
một lời, còn Xương Phó chẳng biết đã tỉnh lại tự lúc nào, cứ trừng trừng nhìn lên đỉnh màn, nghe A Hành kể chuyện.
Đột nhiên, Xương Phó
lên tiếng hỏi: “Sao phụ vương không hề phát binh? Nếu chiến binh Thần
tộc của chúng ta nhiều hơn nữa, chỉ cần có một vị Thần tộc đại tướng
tinh thông trận pháp bày trận, dù Chúc Dung đem thân làm trận nhãn,
chúng ta cũng không tới nỗi toàn quân bị diệt.”
A Hành nói:
“Muội có thể lấy tính mạng ra bảo đảm, Liệt Dương tuyệt đối đáng tin,
chiến dịch này hết sức quan trọng với Hiên Viên, nhất định phụ vương
không muốn thua, chỉ cần ông nhận được tin, chắc chắn sẽ dốc toàn lực
ngăn cản Chúc Dung, cách giải thích duy nhất chính là phụ vương không
nhận được bức thư Liệt Dương đưa về.”
Kẻ nào dám chen ngang đoạt lấy thư tín gửi cho Hoàng Đế? Kẻ nào có thể lớn gan chừng ấy, lại có thể có năng lực ấy?
A Hành sực nghĩ ra, tức thì đau đớn trào lên cùng giận dữ, lạc giọng hỏi: “Đêm qua phụ vương nghỉ lại Chỉ Nguyệt điện ư?”
Luy Tổ đột ngột lảo đảo, ngã ngửa ra sau, A Hành vội đỡ lấy bà: “Mẹ, mẹ!”
Luy Tổ hơi tỉnh lại, liền quay sang nhìn Xương Phó khóc: “Xin lỗi con, là tại ta nuôi ong tay áo!”
Xương Phó nuốt lệ nói: “Mẹ, mẹ nói gì thế?”
Luy Tổ nước mắt vòng quanh: “Vì lỗi lầm thơi trẻ nên ta vẫn lấy làm áy náy
với Đồng Ngư thị, thật không ngờ đã sai lại càng sai! Đáng lẽ ta phải
nhận ra từ sớm, nếu đã phạm sai lầm, thà rằng bản thân bị trời phạt,
cũng phải làm cho đến cùng, nếu năm xưa ta xuống tay tàn độc, giết phăng mẹ con Đồng Ngư thị đi, thì chẳng bao giờ có ngày này!”
Xương
Phó gắng gượng bước xuống giường, quỳ xuống trước mặt Luy Tổ, khóc nức
lên: “Mẹ, nếu mẹ còn tự trách bản thân nữa thì Xương Ý có chết cũng
chẳng được yên lòng đâu.”
Luy Tổ ôm lấy Xương Phó và A Hành, khóc đến khàn giọng, A Hành và Xương Phó cũng lã chã nước mắt.
Chuyên Húc ngồi im một góc, nhìn mẹ, cô cô, và bà nội khóc nức nở, như hiểu mà lại không hiểu, chỉ đinh ninh nhớ lời dặn của bà, gắng nhớ lấy tất cả.
Bà nội đã nói, hiện giờ cậu là nam tử hán duy nhất trong nhà, nhất định
phải kiên cường.
Một cung nữ liêu xiêu chạy vào, “Vương hậu, cả đoàn người đang đến ngoài kia, họ đều mặc áo tang, chít khăn tang…”
Xem ra phụ vương đã nhận được tin nên phái người tới bẩm với mẫu hậu. A
Hành nói: “Cứ nói chúng ta biết cả rồi, bảo bọn họ về đi.”
Cung nữ nọ luống cuống nuốt khan, lắp bắp thưa: “Không, không được đâu, cả Hoàng Đế cũng tới.”
Nhất thời, mọi người trong phòng đều lặng đi.
Luy Tổ căm giận quát: “Bảo ông ta cút về đi! Nói rằng ta không muốn gặp ông ta, đời này kiếp này không muốn trông thấy ông ta nữa!”
Thấy ả
cung nữ kinh hãi há hốc miệng. A Hành liền đứng dậy kéo kéo tay áo ả, ý
bảo ả theo mình ra ngoài, nào ngờ Xương Phó cũng đuổi theo: “Ta có lời
muốn nói cùng phụ vương.”
A Hành và Xương Phó ra đến tiền điện,
thấy Hoàng Đế toàn thân vận áo tang, vẻ mặt đau xót, vừa thấy A Hành
liền hỏi ngay: “Mẫu hậu con thế nào rồi?”
A Hành đáp: “Mẫu hậu không khỏe lắm, đang nằm nghỉ.”
Hoàng Đế dợm bước: “Để ta vào xem.”
A Hành vội giơ tay cản ông lại, “Phụ vương, mẫu hậu không chịu được kích động.”
Hoàng Đế khựng lại, “Vậy… vậy để hôm khác.”
Đoạn ông quay ra bảo Xương Phó: “Hai trăm binh sĩ Thần tộc đều hy sinh, còn
bốn ngàn chiến sĩ Nhược Thủy rút lui theo lệnh Hành nhi còn sống cả, ta
đã phái người tiếp tục tìm kiếm, có lẽ còn có thể cứu thêm vài ba chiến
sĩ Nhược Thủy nữa, nếu con có yêu cầu gì, cứ nói ra đi.”
Xương
Phó vẻ mặt lạnh lùng, đang định lên tiếng thì bị A Hành cướp lời: “Phụ
vương, ba ngày trước con đã sai Liệt Dương đem thư về bảo Chúc Dung định dẫn phát cho núi lửa mổ tung, xin người lập tức phái binh chi viện,
hiện giờ Liệt Dương ở đâu không rõ, còn thư chẳng hay phụ vương có nhận
được không?”
Hoàng Đế tâm niệm xoay chuyển như chớp, lập tức
hiểu ngay mọi chuyện, giận đến tím mặt, nét mặt méo mó đi vì phẫn nộ,
nhưng dần dà, ông lại khôi phục vẻ thản nhiên, “Chuyện này ta sẽ phái
người tra xét.”
A Hành hoàn toàn mất hết hy vọng vào Hoàng Đế,
nhất định ông sẽ dùng một phương pháp để trừng trị Di Bành đích đáng,
nhưng đó không phải hình phạt mà nàng muốn.
Xương Phó quỳ xuống
nói: “Phụ vương, tuy Xương Ý đã tan xương nát thịt, nhưng con muốn xin
Người cử hành tang lễ long trọng cho chàng.”
Hoàng Đế đáp: “Ta đã định sắp xếp như thế rồi, con còn yêu cầu gì khác không?”
Xương Phó lắc đầu.
Hoàng Đế nói: “Vậy ta đi đây, nếu cần gì các con cứ phái người tới trực tiếp bẩm với ta.”
Vân Tang nấp ngoài điện thấy Hoàng Đế đã đi khỏi, mới dần theo Chu Du bước
vào tiền điện. Tuy nàng đã được gả cho Thanh Dương nhưng tại Triêu Vân
điện, nàng vẫn là người ngoài, bởi thế nàng chỉ một mực ru rú trong nhà, phàm việc gì cũng ra sức tránh né.
A Hành vấn an nàng, còn Xương Phó cứ ngồi ngây ra như phỗng, tựa hồ chẳng còn biết gì tới mọi chuyện xung quanh nữa.
Trước tình cảnh ấy, Vân Tang cũng xót xa vô hạn, nàng còn nhớ buổi hôn lễ mấy trăm năm trước, dưới bóng Nhược Mộc hoa đỏ thắm, Xương Phó cứng cỏi
ranh mãnh, thông minh tinh quái nhường nào. Trong lòng nàng, Xương Ý và
Xương Phó là đôi phu thê duy nhất khiến nàng ngưỡng mộ, khiến nàng tin
rằng trên đời này vẫn tồn tại tình cảm vợ chồng son sắt, chỉ tiếc rằng
trời cao quá đỗi nhỏ nhen, ghen ghét cảnh viên mãn, lại bắt bọn họ cách
trở âm dương.
Vân Tang nói với A Hành: “Mấy ngày trước, ta nửa
đêm mất ngủ bèn ra ngoài cho khuây khỏa, trông thấy dưới Hiên Viên sơn
có ánh lửa bèn chạy đến xem, vừa khéo bắt gặp Di Bành dẫn theo mấy tên
Yêu tộc vậy đánh một con Lang điểu, một tên trong số đó hình như thuộc
Hồ tộc, nói cái gì muốn đoạt Phượng Hoàng nội đan của Lang điểu dâng lên cho Hồ vương trị thương. Ta nghĩ là Liệt Dương, bèn ra tay cứu nó, vốn
định hôm nay muội về sẽ nói lại với muội, nhưng lúc đến đây tìm lại
loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc, ta thấy không tiện lắm bèn tránh đi,
nào ngờ lại xảy ra chuyện lớn như vậy.”
A Hành vội hành lễ với nàng, cảm kích nói: “Đa tạ tỷ, hiện giờ Liệt Dương đâu rồi?”
Vân Tang đáp: “Ở đằng Hậu Thổ. Thương thế của Liệt Dương rất nặng, ta không giúp được nó, đành đưa đến chỗ Hậu Thổ, để Hậu Thổ trị thương cho nó.”
Vừa rồi chỉ mãi lo đến an nguy của Liệt Dương, không suy nghĩ được kỹ càng, mãi đến giờ A Hành mới phát hiện những lời Vân Tang nói có rất nhiều
nghi vấn. Công lực của Liệt Dương cao hơn Vân Tang, kẻ mà Liệt Dương
không đối phó nổi, nhất định Vân Tang cũng chẳng thể địch lại, cách giải thích duy nhất chính là lúc đó Hậu Thổ cũng ở đây, và kẻ cứu Liệt Dương là Hậu Thổ.
Vân Tang băng tuyết thông minh, thoạt nhìn vẻ mặt A Hành liền nhận ra ngay nàng đã đoán được sự tình, bèn thản nhiên thừa
nhận, “Ta cũng biết là không giấu được muội, thực ra tối hôm đó ta ra
ngoài gặp Hậu Thổ. Nghe nói Chúc Dung định đầu hàng, ta có phần nghi
ngờ, bèn đi tìm Hậu Thổ gạn hỏi tình hình chiến trận, tiếc rằng khi bọn
ta đến Liệt Dương đã hôn mê nên không hỏi được nó đến vì việc gì.”
Dù đến sớm thì sao chứ? Tuy Vân Tang đã gả cho Thanh Dương, nhưng đôi bên
chỉ là lợi dụng lẫn nhau, dù nhận được tin từ sớm, chắc gì Vân Tang đã
báo với Hoàng Đế. Thậm chí A Hành còn mừng thầm vì họ không biết, bằng
không có lẽ Vân Tang sẽ nghĩ cách báo với Chúc Dung, đến chừng đó e rằng ngay cả bốn ngàn binh sĩ và Xương Phó cũng không sao thoát được.
Nghĩ đến đó, A Hành bỗng toát mồ hôi lạnh, sao bây giờ nàng lại thành ra thế này? Vân Tang và Hậu Thổ luôn thân thiết với nàng, thân là dị tộc bại
trận, vậy mà họ vẫn mạo hiểm, bất chấp đắc tội Di Bành để cứu Liệt
Dương, sao nàng có thể đa nghi như vậy? Nhưng nàng có thể không đa nghi
ư? Nhưng dù có tốt đến mấy cũng chỉ là tư tình, đứng trước đại nghĩa,
những kẻ sinh ra trong vương thất, lớn lên trong vương thất như bọn họ
đều phải vứt bỏ tư tình để giữ trọn đại nghĩa.
Xương Phó đang
ngồi ngây ra như phỗng đột nhiên đứng bật dậy, chạy vụt ra ngoài, A Hành vội kéo nàng lại: “Tứ tẩu, tẩu đi đâu đấy?”
“Muội không nghe
thấy tiếng tiêu của Xương Ý à? Muội nghe mà xem.” Xương Phó ngưng thần
lắng tai nghe, chợt cuống quýt: “Sao lại không nghe nữa rồi? Rõ ràng vừa nãy ta nghe thấy mà. Đại tẩu, A Hành, hai người có nghe thấy không?”
Vân Tang nước mắt lã chã, A Hành lòng đau như cắt, nhưng chẳng có cách nào
khả dĩ khuyên giải Xương Phó, chỉ biết đặt hết hy vọng vào thời gian.
Đối với một số người, thời gian sẽ xóa nhòa tất cả, nhưng đối với Xương
Phó, có lẽ thời gian chỉ đay đi đay lại nhắc nàng: Xương Ý đã không còn
nữa!
Cũng như Viêm Đế từng nói với A Hành khi đứng trước mộ thê
tử vậy, sinh mệnh đằng đẵng chỉ càng khiến nỗi đau dài ra đến vô chừng!
Hoàng Đế hạ lệnh toàn quốc để tang cho Xương Ý.
Hiên Viên quốc giờ đây đang hưng thịnh, các tộc các nước trên dại hoang đều
phái sứ giả tới điếu tang, Thiếu Hạo là người thân, tuy không thể đích
thân đến, nhưng cũng phái sứ giả đưa vương cơ Cửu Dao tới để tang cho
bác.
Hoàng Đế cử hành tang lễ trọng thể cho Xương Ý trong Hiên
Viên thành, A Hành không muốn Luy Tổ người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh nên
ra sức khuyên bà đừng đi, cứ ở lại Triêu Vân điện.
Sau khi nghi thức hoàn tất, tới lúc an tang, Xương Phó đột ngột yêu cầu tất cả lui ra, chỉ có người Hiên Viên tộc ở lại.
Đợi quan tài đựng đầy những vật dụng Xương Ý từng sử dụng hạ xuống huyệt,
Tông Bá đang định hạ lệnh lấp đất, bỗng Xương Phó từ đầu đến cuối vẫn
làm thinh đột ngột lên tiếng: “Đợi đã!”
Mọi người đều ngạc nhiên đổ dồn ánh mắt về phía nàng. Xương Phó chăm chú nhìn quan tài Xương Ý
một thoáng, rồi ngoảnh lại nghẹn giọng tuyên bố: “Hôm nay, ta ở đây đau
đớn tiễn đưa Xương Ý, phu quân của ta. Ở Nhược Thủy, còn hơn sáu ngàn
phụ nữ cũng đang khóc lóc tiễn đưa phu quân của họ như ta. Đối với Nhược Thủy tộc chúng ta, oanh liệt hy sinh trên sa trường là hành vi hết sức
vinh quang! Nhưng chúng ta không thể chấp nhận được nếu người thân của
mình bị người hãm hại mà chết, đó chính là xúc phạm vong linh! Là bất
kính đối với người chết! Cái chết của người thân giống như móc mất trái
tim chúng ta vậy, nhưng nếu họ chết vì bị người hãm hại, thì cũng giống
như trái tim sau khi bị móc ra, lại bị đâm vào thuốc độc! Ngày nào chưa
thể trả hận, ngày đó trái tim chúng ta còn bị ngâm trong thuốc độc!”
Nói rồi, Xương Phó trừng mắt nhìn Di Bành: “Hiên Viên Di Bành, ngươi có
nghe thấy tiếng rít gào phẫn nộ của đám vong linh dưới đất, tiếng khóc
than đau đớn của những phụ nữ Nhược Thủy tộc chăng?”
Di Bành hờ
hững đáp: “Ta chẳng hiểu Tứ tẩu nói gì cả, xin Tứ tẩu nén đau thương,
chấp nhận sự thật, đừng nói quàng nói xiên nữa.”
Hoàng Đế vội ra lệnh cho thị nữ: “Vương tử phi đau lòng quá độ, thần trí không tỉnh
táo, các người còn không mau đỡ vương tử phi lui xuống.”
Đám thị nữ định kéo Xương Phó đi, nhưng các đại hán Nhược Thủy “soạt” một tiếng nhất tề rút đao ra, chắn trước mặt Xương Phó, sát khí đằng đằng.
Xương Phó cao giọng nói: “Vương cơ phát hiện ra Chúc Dung đang bày trận dẫn
phát cho núi lửa nổ tung, bèn phái người đưa thư cho Hoàng Đế, thỉnh cầu ngài phái thần tướng tới phá trận, trong lúc đó, ta và Xương Ý đã phải
trăm phương ngàn kế lần lữa với Chúc Dung kéo dài đến chập tối. Nếu viện binh đến kịp thì đâu có tang lễ hôm nay. Nhưng thư của vương cơ giữa
đường đã bị kẻ khác đoạt mất, kẻ đó chính là hắn, Cửu vương tử của Hiên
Viên!” Xương Phó chỉ thẳng vào Di Bành, tất cả mọi người đều kinh hoàng
nhìn theo tay nàng.
Xương Phó chầm chậm quét mắt qua tất cả
người Hiên Viên tộc, ánh mắt lạnh lùng, vẻ mặt đanh lại, khiến Hoàng Đế
nhất thời cũng cứng họng, nói không nên lời.
Xương Phó lại nói:
“Ta sau khi cha ta quỳ xuống dưới chân Hoàng Đế, hai tay dâng Nhược Mộc
hoa cổ xưa nhất lên ngài, chấp nhận quy thuận Hiên Viên quốc, chúng ta
đã trở thành con dân Hiên Viên, cũng chính là con dân của Hiên Viên Cửu
vương tử, nhưng hắn lại vì thù hận cá nhân mà phản bội con dân của mình. Thân là tộc trưởng Nhược Thủy, vì vong linh của sáu ngàn tộc dân, vì
nỗi đau của sáu ngàn nữ tử, ta không thể tha thứ cho hắn được, nếu tha
thứ cho hắn, ta còn mặt mũi nào trở về Nhược Thủy nữa! Thân là thê tử
của Xương Ý, hắn giết phu quân ta, ta càng không thể tha thứ cho hắn!”
Vừa nói, Xương Phó vừa rút phắt chủy thủ giấu sẵn trong tay áo, phi thân vọt lên, dốc toàn lực, đâm thẳng về phía Di Bành. Thần khí do Thiếu Hạo rèn ra lập tức phát huy uy lực đáng sợ của mình, nhân khí hợp nhất, khí thế như cầu vồng, không gì ngăn cản được.
Di Bành đã quen nấp
trong bóng tối ném đá giấu tay, đâu có ngờ Xương Phó lại dám ra tay giết mình ngay trước mặt mọi người, vội cuống quýt lùi lại, hấp tấp bày kết
giới, nhưng Xương Phó đã có dự định sẵn, hắn làm sao cản nổi một đòn dốc hết toàn lực bất chấp sinh tử của nàng. Xương Phó thế như chẻ tre lao
tới, tất cả chướng ngại đều bị nàng phá tan tành.
Di Bành chỉ
trông thấy một vầng sáng lao tới như tên bắn, càng lúc càng gần, càng
gần càng chói lọi, có tránh cũng không sao tránh nổi, hồng quang bùng nổ ngay trước mắt hắn, nhắm thẳng vào tim hắn, con ngươi hắn chợt co rút,
chẳng cách nào tránh thoát, hắn đành tuyệt vọng nhắm nghiền mắt lại.
Cả thế giới tựa hồ đều tan biến, bên tai chỉ còn sự im lặng chết chóc.
Di Bành cứ ngỡ rằng tử vong sẽ rất đau đớn, nhưng lạ thay, hắn chẳng hề
thấy cảm giác đau đớn khi trái tim bị đam thủng. Hắn bất giác đưa tay sờ lên ngực, tiếc rằng chẳng sờ thấy gì cả.
Thực ra Di Bành cảm
thấy lâu thật lâu, nhưng Xương Phó ra tay thần tốc, một đòn sấm sét chỉ
diễn ra trong một chớp mắt ngắn ngủi. Bấy giờ mới nghe tiếng Hoàng Đế
quát thị vệ, Di Bành chợt mở bừng mắt ra, còn chưa kịp nhìn rõ tình hình đã thấy một thân hình mềm nhũn ngả vào lòng, theo phản xạ, hắn vội đón
lấy, ra là mẹ hắn, máu phun ra từ ngực bà ướt đẫm cả hai tay hắn.
Xương Phó không ngờ Đồng Ngư thị lại nhào tới, lấy thân mình đón một đòn chí
mạng của nàng, bây giờ dù muốn giết Di Bành cũng đã muộn, đám thị vệ
đang xúm quanh hắn bảo vệ rồi.
Từng đóa hoa máu trả giá bằng
sinh mệnh đỏ đến chói chang, thắm tươi rực rỡ, nhưng trong mắt Di Bành,
thế giới giờ đây chỉ còn hai màu đen trắng, thê lương tuyệt vọng.
“Mẹ, mẹ!” Di Bành gào lên thê thiết.
Hắn ôm chầm lấy mẹ, ra sức ấn lên vết thương toan cầm máu, nhưng chỉ cảm thấy thân thể mẹ lạnh dần đi.
Mẹ đã tắt thở, nhưng bà vẫn mỉm cười, chủy thủ cắm vào tim nhất định rất
đau đớn, nhưng biết được con mình không bị tổn thương, dù có phải chịu
đau đớn gấp nghìn lần, bà cũng cam lòng.
“Mẹ!” Di Bành gào lên thê thảm như sói hú.
Rất đông thị vệ xúm lại, dường như định giúp hắn, nhưng hắn phẫn nộ đẩy bọn chúng ra.
Cút, cút ra đi!
Hoàng Đế chạy lại, run run định bế Đồng Ngư thị lên, nhưng bị Di Bành một
chưởng đẩy bật ra: “Không được chạm vào mẹ ta! Ông cũng cút ra! Ông là
đồ bạc bẽo, quân vong ân phụ nghĩa, ông không xứng với mẹ ta!”
Mấy ngàn năm trước, vì hắn, mẹ đã quỳ xuống chân Hoàng Đế khóc lóc van xin, vậy mà ông ta còn quát mắng bà, nói cái gì chút tình xưa còn sót lại đã bị sự điên cuồng và ác độc của bà làm tiêu tan hết, rồi mặc cho mẹ nắm
lấy vạt áo ông ta khóc lóc, Hoàng Đế lạnh lùng đá văng mẹ ra, xông xông
bỏ đi.
Di Bành ôm lấy Đồng Ngư thị, vừa khóc vừa gọi như điên
cuồng, “Mẹ ơi, mẹ tỉnh lại đi, mẹ còn chưa chứng kiến mụ đàn bà trong
Triêu vân điện kia chết kia mà, chẳng phải mẹ nói sẽ không tha cho bà ta ư? Mẹ mở mắt ra đi, con nhất định sẽ giúp mẹ giết bọn chúng, giết sạch
bọn chúng, không chừa một mống, con nhất định sẽ báo thù cho hai huynh…”
Nói rồi, hắn bế thi thể Đồng Ngư thị, loạng choạng chạy vào rừng.
Không ai ngờ ngay trong tang lễ lại xảy ra biến cố thế này, còn liên quan cả
tới bí mật của vương thất, mọi người nhất loạt quỳ xuống, lòng nơm nớp
lo âu, đến thở cũng không dám thở mạnh.
Hoàng Đế sầm mặt ra
lệnh: “Giam tất cả người Nhược Thủy tộc lại, nhốt Xương Phó vào thiên
lao, giao cho Thu quan ti khấu đích thân thẩm vấn, xử trí theo luật.”
Xương Phó ngoảnh lại bảo đám tùy tùng: “Bỏ binh khí xuống, không được phản kháng.”
Nói đoạn, nàng quay sang bế Chuyên Húc lên, thì thầm nói: “Con ngoan, mẹ
rất muốn chứng kiến con trưởng thành, nhưng không được nữa rồi, mẹ nhớ
cha lắm. Có lẽ con sẽ giận mẹ, nhưng đến một ngày nào đó, khi con gặp
được cô gái con yêu thương, hẹn thề sống chết cùng cô ấy, con sẽ hiểu
cho mẹ.” Nàng rút Nhược Mộc hoa gài bên mai tóc, đặt vào tay Chuyên Húc: “Khi nào con gặp cô gái ấy, nhớ tặng bông hoa này cho cô ấy, dắt cô ấy
tới trước mộ cha mẹ nhé.”
Chuyên Húc cũng có dự cảm không lành, liền khóc ré lên:, “Mẹ, mẹ ơi!”
Xương Phó ôm chặt lấy con trai, vừa hôn vừa dặn dò: “Về sau con phải nghe lời cô cô, cô cô sẽ chăm lo cho con, mẹ đi tìm cha con đây. Dù con có hận
mẹ, cũng nhất định phải trưởng thành, lấy vợ sinh con, sinh một bầy cháu nhỏ nhé, cha con chắc chắn sẽ vui lắm đấy…”
A Hành biết Hoàng
Đế nhất định không nhân nhượng cho hành vi hành thích ngay trước mặt mọi người của Xương Phó, không chỉ vì Xương Phó đã giết vương phi của Hiên
Viên quốc, mà còn bởi nếu bỏ qua cho Xương Phó một lần, thì những người
khác cũng được đà, chẳng coi vương pháp ra gì, tùy ý hành thích, quốc
gia sẽ loạn.
Hiện giờ trước hết phải tuân lệnh, ngoan ngoãn vào
ngục trước đã, sau đó sẽ tính kế hóa giải, xem ra Xương Phó cũng hiểu
điều này, nên mới ra lệnh cho tất cả thị vệ của mình lập tức bỏ binh khí xuống.
A Hành vừa thở phào nhẹ nhõm, chợt thấy Xương Phó bế
Chuyên Húc lên, thì thầm dặn dò, không hiểu dặn điều gì nhưng nhìn có vẻ vô cùng lưu luyến Chuyên Húc, ánh mắt lại không rời huyệt mộ của Xương
Ý, vừa cười vừa khóc, khi cười thì rạng ngời hạnh phúc, khi khóc lại bi
ai thảm thiết. A Hành bất giác lạnh toát người, lập tức chạy đến, “Tứ
tẩu, nhất định không được làm chuyện dại dột!” Nói rồi nàng với tay ra,
toan kéo Xương Phó lại.
Xương Phó đặt Chuyên Húc vào tay A Hành
đang đưa tới, “Tiểu muội, xin lỗi, phải nhờ muội lo liệu mọi chuyện rồi, nhớ chăm sóc Chuyên Húc giùm ta nhé.”
Thấy Chuyên Húc được đưa
đến tay, A Hành vội ẵm lấy nó theo phản xạ, những ngón tay lạnh buốt của Xương Phó liền lướt qua kẽ tay nàng, “Tứ ca muội nhờ ta nhắn lại rằng,
chàng không trách Xi Vưu nữa đâu.”
A Hành thoáng ngẩn người, chỉ trong chớp mắt, Xương Phó đã xoay tay lại cắm phập thanh chủy thủ vào ngực mình.
Đám thị vệ đang chạy tới bắt giữ Xương Phó thất thanh la lên, ngây người ra không hiểu mô tê gì cả.
A Hành há hốc miệng, cổ họng nghẹn ngào, ra sức ấn đầu Chuyên Húc vào
lòng mình, không để cậu trông thấy, thân hình nàng run lên bần bật,
khiến Chuyên Húc cũng run bắn lên theo.
Chuyên Húc khóc ré lên
gọi mẹ, đột nhiên cắn mạnh vào tay A Hành, thừa dịp quay phắt lại, trông thấy trên ngực mẹ cậu cắm một thanh chủy thủ, thân mình loạng choạng
tiến về phía huyệt mộ của cha. Y phục mẹ cậu nhuộm đầy máu tươi, đỏ đến
chói mắt, hệt như tấm áo cưới đỏ rực mà cậu trông thấy trong hôn lễ của
Đại bá vậy.
Xương Phó giẫm lên vùng máu lênh láng, từng bước,
từng bước, cuối cùng cũng bước đến bên huyệt mộ của Xương Ý. Nàng chăm
chú nhìn A Hành rồi từ từ rút chủy thủ ra, tựa hồ định trao lại cho A
Hành, nhưng đã sức tàn lực kiệt, cánh tay rũ xuống, chủy thủ cũng theo
tay rơi xuống đất, keng một tiếng rất khẽ, lại chấn động tất cả mọi
người ở đó.
A Hành nước mắt như mưa, gật gật đầu, “Muội hiểu mà, Tứ tẩu, tẩu yên tâm đi đi! Nhắn lại với Tứ ca, muội nhất định không để
bất cứ kẻ nào làm tổn hại đến Chuyên Húc đâu!”
Chuyên Húc rào lên thảm thiết: “Mẹ, mẹ ơi, đừng bỏ con!” Đột nhiên, chẳng hiểu cậu lấy đâu ra sức mạnh, đẩy phắt A Hành ra, lảo đảo chạy về phía mộ
huyệt, “Mẹ, cha, đừng bỏ con mà!”
Thật lạ lùng, có lẽ vì linh lực của Xương Phó tản mác, làm biến đổi cả cảnh vật xung quanh, huyệt mộ đột nhiên tự động khép lại.
Mặt đất bốn bề lập tức gồ lên rồi từ từ hợp lại, tạo thành một nấm đất như bát úp, cản Chuyên Húc lại bên ngoài.
Phía trên huyệt mộ, từ những vết máu loang lồ Xương Phó để lại, chợt mọc ra
vô vàn đóa hoa nhỏ không tên. Cứ hai đóa chung một cánh, cùng một cuống, nương tựa vào nhau, rỡ ràng đón gió, chẳng mấy chốc, cả nấm mồ đã phủ
kiến những đóa hoa đỏ thắm. Gió thổi qua, trăm ngàn đóa hoa đung đưa
trước gió, dường như loáng thoáng nghe thấy tiếng cười rộn rã đâu đây.
Tất cả mọi người đều trố mắt nhìn cảnh tượng trước mặt, không thốt nổi một
lời, chỉ mình Chuyên Húc vẫn ra sức đấm vào nấm mộ, khóc lóc gọi: “Mẹ
ơi, mẹ ơi, mẹ ơi…”
A Hành nhặt thanh chủy thủ đẫm máu Xương Phó
lên, quỳ xuống trước mộ Tứ ca, Tứ tẩu, gương mặt tái nhợt chết lặng, như một pho tượng vô hồn.
Hoàng Đế ngồi lặng trong Chỉ Nguyệt điện, nét mặt tiều tụy mệt mỏi, liên tiếp cử hành ba tang lễ, con trai, con
dâu, rồi đến vợ, dẫu là người kiên cường như ông cũng không sao chịu
nổi.
Dường như vì mọi sự xảy ra quá nhanh, mãi đến giờ ông vẫn còn ngỡ ngàng, chưa hề tin đó là sự thật. Đồng Ngư đi thật rồi sao?
Từ lần đầu gặp gỡ khi còn nhỏ tuổi vô tư, đến sau này nghi kỵ lẫn nhau,
tuy ngày ngày Đồng Ngư đều kề cận bên giường, nhưng ông lại thấy nàng
mỗi lúc một xa lạ, không còn là cô bé nấp trong ruộng cao lương ném quả
lê vào ông ngày nào nữa. Mấy ngàn năm yêu hận dây dưa, mỗi lần ông nhẫn
nhịn, chỉ là vì nhớ đến cái đêm trăng sáng sao thưa ấy, trên đỉnh núi
mọc đầy cỏ dại, ông từ một chàng trai biến thành một người đàn ông, Đồng Ngư cũng từ một cô bé biến thành một người phụ nữ, nàng đã rúc vào lòng ông run lên, chẳng rõ là lạnh vì gió núi, hay là vì căng thẳng sợ hãi.
Ông đã hứa với Đồng Ngư: “Ta sẽ cất căn nhà thật lớn để cưới nàng về.”
Đồng Ngư phì một tiếng: “Ai thèm? Mông Đàm mấy ngày trước đến cầu hôn
với cha ta cũng có căn nhà lớn lắm rồi.” Ông cười trỏ vầng trăng trên
trời: “Căn nhà ta cất có thể trông thấy ánh trăng đẹp nhất trần đời,
giống như đêm nay vậy, hai ta có thể ngày ngày ngắm trăng cùng nhau.”
Đồng Ngư vùi mặt vào ngực ông cười thầm, thân mình không run lên nữa,
chỉ nghe tiếng thì thào khe khẽ: “Ta không muốn ngắm trăng, chỉ muốn
ngắm tên ngốc trỏ vầng trăng kia thôi!”
Năm ấy, hai người bọn họ bất kể thế nào cũng không ngờ được, mấy ngàn năm sau, ngay giữa Chỉ
Nguyệt điện mà ông xây dựng cho Đồng Ngư, ông lại giận dữ tuyên bố cắt
đứt tình xưa, còn nói nếu Đồng Ngư dám động vào người trên Triêu Vân
điện nữa, ông sẽ khiến nàng tan thành tro bụi. Rồi mặc cho nàng khóc lóc thảm thiết, ông đá văng nàng ra, quyết định dứt khoát rời bỏ, mà đâu có ngờ, nàng còn dứt khoát rời bỏ hơn ông.
Hoàng Đế đẩy cửa ra,
liền trông thấy vầng trăng khuyết cong cong như móc câu ngoài cửa sổ.
Ông tựa người vào sập, lặng lẽ ngắm trăng.
Tòa cung điện này
dựng nên vì Đồng Ngư, nhưng cả ngàn năm nay, ông chưa hề cùng Đồng Ngư
sánh vai ngắm nhìn trăng sáng, ông đã không còn là ông năm ấy, nàng cũng không còn là nàng khi xưa, sánh vai cùng ngồi còn ý nghĩa gì nữa chứ.
Có điều, chẳng rõ tại sao, sau một ngày mệt mỏi, ông luôn thích nằm dài ở đây, ngắm nhìn trăng sáng, dưới ánh trăng mờ ảo ấy, có ông một thời trẻ trung sôi nổi, còn có cả một thiếu nữ có thể làm chứng cho thời niên
thiếu sôi nổi của ông. Có điều thời gian đằng đẵng xóa nhòa tất cả, ông
đã chẳng còn phân rõ được người con gái mình nhung nhớ là ai, là cô gái
yểu điệu run lên trong lòng ông, hay nàng thiếu nữ ngạo nghễ băng qua
ánh trăng vằng vặc bước đến trước mặt ông, hay đều không phải?
Hoàng Đế tựa mình vào gối ngọc, tựa ngủ mà không phải ngủ, chẳng biết bao lâu sau, có thầy thuốc tới cầu kiến.
“Muộn thế này, thần vốn không nên tới quấy rầy bệ hạ nghỉ ngơi, nhưng bệ hạ
đã căn dặn phải lập tức bẩm báo bệnh tình của vương hậu nương nương, bất kể lúc nào.”
Hoàng Đế ôn hòa mà uy nghiêm nói: “Ngươi làm đúng lắm.”
“Nghe các cung nữ hầu hạ vương hậu kể, vừa nghe tin Tứ vương tử phi tự vẫn,
vương hậu nương nương tức thì ngất lịm, bọn họ vội tuyên triệu thần, khi thần đến nơi thì vương hậu đã tỉnh lại, mặc cho thần khuyên can đủ mọi
cách, nương nương vẫn bắt đám cung nữ kể lại tường tận sự tình. Nghe nói Đồng Ngư nương nương vì cứu Cửu điện hạ mà đem thân đỡ đao, chết ngay
tại chỗ, nương nương lại kích động cười rộ lên, cười mãi cười mãi rồi
bắt đầu òa lên khóc, vừa khóc vừa ho rũ rượi, ho ra toàn là máu. Các
cung nữ quỳ đầy dưới đất, kẻ van vỉ người khuyên nhủ, nhưng vương hậu
vẫn kích động, không sao bình tĩnh lại được, cũng không chịu cho thần
xem bệnh, may sao bấy giờ vương cơ về kịp, dẫn theo Chuyên Húc vương tử
và Cửu Dao vương cơ quỳ trước giường vương hậu, dập đầu lia lịa, bấy giờ vương hậu mới chịu để cho thần chẩn mạch.”
“Bệnh tình bà ấy thế nào?”
“Uất khí tích tụ trong ngực, nhiều năm không tan, tâm mạch đã thương tổn, từ sau khi Chuyên Húc tiểu vương tử ra đời, bệnh tình vương hậu đã có biến chuyển, có điều mấy ngày nay liên tiếp bị kích động, cơn bệnh không còn khống chết được nữa, linh khí rối loạn hoàn toàn, hiện giờ thần cũng
không dám dùng thuốc, chỉ dám kê vài vị an thần thôi.”
“Rốt cuộc là sao?”
Thầy thuốc thoáng do dự, đoạn dập đầu binh binh, khẽ đáp: “Trầm kha khó
chữa, không cách nào cứu vãn, sớm muộn ắt sẽ… Thần không dám thưa thật
với vương hậu, chỉ nói là nhất thời đau buồn quá độ, yên lòng tĩnh dưỡng sẽ khỏe.”
Hoàng Đế kinh ngạc sững sờ, bất giác lại đưa mắt nhìn ra cửa sổ.
Thầy thuốc căng thẳng đợi hồi lâu, chẳng thấy Hoàng Đế ừ hữ gì. Y len lén
nghiêng đầu nhìn trộm Hoàng Đế, từ góc độ của y, chẳng thể thấy được nét mặt Hoàng Đế, chỉ thấy rõ mồn một khung cảnh ngoài song. Vành trăng
cong vút như một chiếc móc câu ngọc ngà nghiêng nghiêng treo dưới song
cửa.
Hoàng Đế vẫn không lên tiếng, thầy thuốc cũng chẳng dám ho he.
Mãi đến khi đầu gối gã thầy thuốc đã tê dại cả đi, Hoàng Đế mới đột ngột
định thần lại, trông thấy y, Hoàng Đế ngạc nhiên hỏi: “Sao ngươi còn ở
đây?”
Thầy thuốc vội dập đầu: “Thần cáo lui.” Đoạn tức tốc lùi ra khỏi đại điện.
Trăng lên quá đỉnh đầu, mọi âm thanh đều bặt tiếng.
Chu Du ngồi trông Luy Tổ, cứ tựa người bên sập gật gà gật gù. Vân Tang đã
dắt Chuyên Húc và Cửu Dao đi nghỉ. A Hành còn đang tất bật giã thuốc,
nhưng giã xong lại bỏ đi, đổ xong lại giã, ánh mắt đầy đau khổ và lo
lắng.
Thiếu Hạo nhân đêm tối đã chạy đến Triêu Vân phong, thoạt
tiên y lặng lẽ tới thăm Luy Tổ, rồi sau đó, được Chu Du chỉ dẫn, lại ta
sau đình viện tìm A Hành. Y khe khẽ gọi nàng nhưng A Hành một mực làm
ngơ, đi lướt qua y, như không nghe thấy.
Thiếu Hạo đành ngồi xuống thềm đá, lặng lẽ nhìn A Hành đi qua đi lại.
Chu Du nói thầy thuốc bảo không có gì đáng ngại, nhưng y vốn rõ hơn ai hết, thầy thuốc trong cung đình hễ gặp bệnh nặng thường sẽ không dám nói
thật. Nhìn tình trạng Luy Tổ, lại nhìn dáng vẻ A Hành, y hiểu Luy Tổ e
rằng chỉ còn sớm tối.
Như ý nguyện của y, cả Hiên Viên và Thần Nông đều tổn thất không nhỏ, nhưng y chẳng hề thấy vui vẻ chút nào.
Mỗi lần A Hành chìa tay ra cầm nắm gì đó, y lại trông thấy bàn tay mất đi
ngón út của nàng, trái tim bất giác nhói lên, như thể ngón tay bị cắt
đứt là của y vậy.
Vô vàn đom đóm múa lượn trên bãi cỏ, tỏa sáng
lập lòe, tựa như vô vàn vì sao nho nhỏ lung linh, y tiện tay bắt lấy một con, nắm trong lòng bàn tay như một ngọn đèn nhỏ xíu, dưới ánh trăng mờ mờ, rất nhiều chuyện xưa chợt hiện ra.
Y nhớ lần đầu tiên gặp
Xương Ý, Xương Ý còn ngượng ngập nấp sau lưng Thanh Dương, ngọng nghịu
gọi “Thiếu Hạo ca ca”; nhớ lúc y, Thanh Dương và Vân Trạch uống rượu,
Xương Ý đều ngoan ngoãn ngồi một bên, cặp mắt sáng rực chăm chú nhìn bọn họ; nhớ hồi nhỏ Xương Ý cầm thanh kiếm, y lại cầm tay Xương Ý, dạy
Xương Ý chiêu kiếm đầu tiên, trong khi Thanh Dương đứng bên cạnh vỗ tay
cổ vũ, Xương Ý cũng cười nói “Cám ơn Thiếu Hạo ca ca”; nhớ sau khi Vân
Trạch qua đời, Thanh Dương bị giam ở Lưu Sa, Xương Ý cuống quýt chạy tới tìm y, khóc lóc, “Thiếu Hạo ca ca, huynh mau tới thăm Đại ca đi, Đại ca sắp chết rồi.”
Y cũng nhớ lần đầu tiên gặp A Hành, khắp người
nàng toàn là máu, nằm lịm trên tế đài. Lúc bế nàng lên, lòng y chợt rung lên một cảm giác vi diệu, thiếu nữ này là tân nương của y đấy ư? Đột
nhiên, y bỗng lạnh người vì sợ, suýt nữa y đã đến muộn một bước rồi.
Từ Ngọc sơn về đến Triêu Vân phong, A Hành cùng y trò chuyện thâu đêm dưới bầu trời đầy sao sáng, tuy nàng cố làm bộ tự nhiên, nhưng cứ nhấp một
ngụm rượu, nàng lại đỏ bừng mặt. Có lẽ biết được vẻ thẹn thùng kia là do mình, nên y chẳng dám nhìn lâu.
Trong Thừa Hoa điện, y cùng
nàng nắm tay du ngoạn, gảy đàn thưởng nhạc, trồng cây ngắm hoa, ủ rượu
chuốc chén, vốn chỉ để che mắt người đời. Nhưng tiếng đàn ấy vì có nàng
thưởng thức, nên mới du dương thánh thót, hoa trong vườn vì có nàng nắm
tay cùng ngắm nên mới diễm lệ vô song, rượu ngon y ủ vì có nàng cùng
uống cùng say nên mới đượm nồng thơm ngát. Nàng cười, nàng cau mày, nhất cử nhất động của nàng đều tươi tắn sinh động, biến cả tòa cung điện
vắng lạnh mênh mông thành một ngôi nhà, y vì nàng mà vui vẻ, vì nàng mà
tươi cười, tất cả đều là chân thành, quãng thời gian sớm tối bên nhau
đó, tuyệt không giả dối.
Dưới Ngu uyên, trong bóng đêm tăm tối
tưởng chừng nuốt trọn được tất cả, y nhắm mắt chờ chết, vậy mà A Hành đã đi rồi còn quay lại vì y, xưa nay nàng chẳng thề hẹn gì với y, vậy mà
nàng vẫn không lìa bỏ. Lần ấy, tuy y ở trong bóng tối nhưng lại cảm nhận được ánh sáng, còn lần này, y đang nắm lấy ánh sáng, vậy mà chỉ cảm
thấy đêm tối mịt mùng.
“A Hành!”
Y nắm lấy gấu quần xanh biếc lướt qua bên mình, định giải thích, định cứu vãn, nhưng chính y
cũng chẳng biết phải nói gì. Giải thích rằng y không hề muốn Xương Ý
chết ư, hay phân bua rằng y không ngờ Xương Ý lại cố chấp đến vậy, rõ
ràng đã nhận được tin, có thể đi trước nhưng lại không chịu sống nhục,
càng không ngờ Xương Phó lại cương liệt đến thế, quyết không sống một
mình.
“Buông ra!”
A Hành ra sức giật gấu quần ra, Thiếu Hạo không nói một lời, nhưng bất kể thế nào cũng không chịu buông.
A Hành rút phắt chủy thủ ra, đó chính là thanh chủy thủ y và nàng cùng
rèn làm quà kết hôn cho Xương Ý và Xương Phó, cũng là thanh chủy thủ hôm nay Xương Phó dùng để tự vẫn, trên chủy thủ vẫn còn vệt máu. Thiếu Hạo
run bắn lên, vật còn đây mà người đã mất, lời chúc phúc năm ấy y đích
thân rèn lên, giờ đây, chỉ còn như một lời châm chọc.
A Hành nắm chủy thủ bằng bàn tay chỉ còn bốn ngón, chủy thủ lướt qua chiếc quần,
nửa ống quần lập tức bị cắt lìa. Trong nháy mắt, bóng nàng đã xa tít.
Thanh Dương, Vân Trạch, Xương Ý, Xương Phó, từng người lần lượt ra đi mãi mãi, A Hành cũng kiên quyết rời bỏ y!
Trong rừng dâu, Xi Vưu đang đứng tực vào một thân cây, lặng lẽ nhìn Thiếu Hạo và A Hành.
Biết được hôm nay là ngày đưa tang Xương Ý, hắn không yên tâm về A Hành nên
định tới xem thử, nào ngờ lại nghe nói Xương Phó tự vẫn. Hắn vốn không
định lên Triêu Vân phong, không phải vì sợ, mà e sự xuất hiện của mình
sẽ làm A Hành đau khổ, giờ đây những đau khổ mà nàng phải gánh chịu đã
quá nhiều, hắn chỉ muốn xác nhận rằng nàng bình an, rồi sẽ âm thầm quay
về.
Nhưng nàng chẳng hề bình an, Xi Vưu cũng chẳng đành lòng bỏ
đi, đành ẩn mình giữa rừng dâu, nấp trong bóng tối bầu bạn với nàng.
Nhìn đám thầy thuốc lũ lượt ra vào Triêu Vân điện, tuy không nghe được
thầy thuốc nói gì, nhưng nhìn dáng vẻ A Hành, hắn cũng có thể đoán được, bệnh tình Luy Tổ nhất định không nhẹ.
Cỏ dại mọc đầy dưới nền
đất rải đá xanh, không ai cắt xén, lại thêm sương đêm ướt đẫm, A Hành
giẫm lên đám cỏ ướt sũng, liền trượt chân ngã nhào.
Nàng định
đứng dậy nhưng vừa gượng dậy, cổ chân đã đau buốt, lại ngồi phịch xuống. Đột nhiên, nước mắt A Hành trào ra như mưa, nàng không dám khóc ra
tiếng, đành gắng sức kìm lại, kìm nén đến nỗi cả người run lên lẩy bẩy,
chỉ thấy từ trong ra ngoài đều buốt giá đến tận xương tủy, tựa hồ rơi
xuống hố băng vậy.
Thiếu Hạo vội vàng đứng dậy, định chạy đến đỡ nàng, chợt phát hiện có người nấp trong rừng dâu, “Ai đó?” Xi Vưu rất
giỏi ẩn nấp, Thiếu Hạo lại đang hoảng hốt tâm thần, vốn không hề phát
hiện ra, nhưng trông thấy A Hành trượt ngã, Xi Vưu đương lúc khẩn
trương, quên cả thu liễm khí tức.
Thấy Thiếu Hạo đã phát hiện ra mình, Xi Vưu chẳng buồn né tránh, cứ thế hiên ngang hiện thân. Hắn chỉ
hờ hững liếc qua Thiếu Hạo rồi đi thẳng về phía A Hành, coi Thiếu Hạo
như không khí, kéo nàng đứng dậy.
A Hành cứ ngỡ là Thiếu Hạo,
dụng lực định đẩy ra, nào ngờ lại là Xi Vưu, hai tay nàng bất giác biến
đẩy thành nắm, nắm chặt lấy cánh tay hắn, chứa chan nước mắt nhìn Xi
Vưu, vẻ mặt đau đớn bơ vơ như muốn tìm một nơi nương tựa, để trút bỏ đau thương không cách nào chịu đựng.
Xi Vưu ôm lấy A Hành, không
nói một lời, chỉ siết chặt lấy nàng, siết thật mạnh, như muốn dùng hơi
ấm của mình sưởi ấm cõi lòng nàng, giấu nàng vào máu thịt mình, không để nàng phải chịu bất kỳ đau khổ nào nữa.
A Hành gục đầu vào cổ Xi Vưu, cắn mạnh vào vai hắn, khóc lặng đi. Nước mắt nàng trào ra như
suối, không có vòng tay ấm áp của hắn, trái tim nàng đã chẳng còn đơn
độc lạnh lẽo nữa.
Thiếu Hạo ngẩn ra nhìn Xi Vưu và A Hành, nhưng trong mắt hai người bọn họ chỉ có nhau. Y đành lặng lẽ quay người, ưỡn
thẳng lưng, ngẩng cao đầu, từng bước từng bước đi khỏi, duy có ánh mắt
vẫn tan tác hư vô.
Huyền điểu chở y bay vút lên không, đêm nay
trăng nhạt sao sáng, muôn ngàn ngôi sao lấp lánh hệt như muôn ngàn ngọn
đèn lung linh, y ngửa mặt nhìn lên cả trời sao sáng, chợt bật cười như
điên dại, cười đến gập cả người, suýt nữa thì ngã xuống. Ngàn vạn ngọn
đèn trên sông nước Cao Tân đều an toàn, nhưng ngọn đèn cuối cùng của y
đã hoàn toàn tắt lịm!
Bảy ngày sau, theo lệ tục, phải làm lễ tế Xương Phó.
Xương Phó giết Đồng Ngư thị tội không thể tha, nhưng nàng đã lấy mạng đền
mạng. Nhờ A Hành thuyết phục, cuối cùng Hoàng Đế cũng hạ lệnh phóng
thích tất cả chiến sĩ Nhược Thủy tộc bị giam giữ, còn cho phép bọn họ dự lễ tế Xương Phó, có điều không được trở về Nhược Thủy nữa, mà trở thành thị vệ bên cạnh Chuyên Húc, mãi mãi ở lại Hiên Viên sơn.
Hoàng
Đế đích thân tới dự lễ tế Xương Phó, nghi thức do Chuyên Húc thực hiện
dưới sự chỉ dẫn của Tiểu Tông Bá, nhưng Chuyên Húc lần lữa mãi vẫn không chịu bắt đầu, nói phải đợi cô cô.
Tiểu Tông Bá giục giã mấy
lần, Chuyên Húc chỉ mím môi không nói. Trước khi cậu đi, cô cô đã dặn:
“Con đi trước đi, cô cô phải đi lấy mấy thứ cho mẹ con, để mẹ con an tâm đi cùng cha con.”
Hoàng Đế hờ hững đứng ngoài quan sát.
Chuyên Húc toàn thân vận đồ tang, đứng ngay đầu tiên, gương mặt nhỏ đanh lại.
Có lẽ vừa phải trải qua hai cái tang lớn, cặp mắt cậu đượm vẻ chín chắn
trước tuổi, ánh mắt nhìn người khác luôn luôn lạnh lùng, đầy cảnh giác
và thăm dò, bởi tuổi còn quá nhỏ, chưa biết che đậy nên vẻ sắc bén bức
người đó của cậu lại càng khiến người ta kinh hãi.
Tiểu Tông Bá
nhìn giờ, không dám lần lữa thêm nữa, bèn hạ lệnh cử hành nghi thức, nào ngờ Chuyên Húc đã bước lên trước, cương quyết tuyên bố trước tất cả mọi người: “Ta nói khi nào bắt đầu thì khi nấy mới được bắt đầu!”
“Nhưng còn giờ giấc…”
Chuyên Húc trừng mắt nhìn Tiểu Tông Bá, “Người nằm đây là cha mẹ ta, ta phải làm chủ!”
Tiểu Tông Bá không nói được nửa lời, lúng túng đưa mắt nhìn Hoàng Đế, nào
ngờ Hoàng Đế chẳng nói gì, chỉ chăm chú nhìn Chuyên Húc.
Hoàng
Đế còn nhớ lần đầu tiên nhìn thấy Chuyên Húc là lúc cậu còn quấn tã, ông ôm Chuyên Húc vào lòng, phát hiện thấy cậu rất mẫn cảm với tiếng đàn,
khi nhạc sư cung đình đàn sai một nốt, Chuyên Húc thuở ấy còn chưa biết
nói đã cau mày. Hoàng Đế ngỡ rằng tính tình Chuyên Húc cũng giống như
Xương Ý, chỉ mê mải với những thứ vô dụng cầm kỳ thi họa, từ đó chẳng
ngó ngàng gì đến cậu nữa. Nhưng lần này, Hoàng Đế đã bắt đầu nhìn Chuyên Húc bằng con mắt khác.
Hôm nay cũng là ngày tế lễ Đồng Ngư thị, nhưng Luy Tổ là vương hậu, Thanh Dương là Hoàng Đế tương lai trong lòng mọi người, Hoàng Đế lại loan tin ra ngoài là Xương Phó bị thương trên
chiến trường, thương thế quá nặng mà qua đời, nên lễ tế đương nhiên cũng phải long trọng hơn Đồng Ngư thị “bệnh nặng mà chết” nhiều.
Trước mộ Đồng Ngư thị vắng tanh, chỉ có một mình Di Bành đang quỳ.
Thấy A Hành tiến lại, Di Bành quát: “Cút xa ra!”
A Hành chẳng buồn để ý tới hắn, vẫn đến bên mộ. Di Bành nổi giận, liền
vung quyền đánh A Hành, chiêu nào chiêu ấy đều chí mạng, “Ngươi tới đây
diễu võ dương oai chứ gì?”
A Hành vừa tránh vừa đáp: “Ta diễu võ dương oai cái gì đây? Diễu võ dương oai rằng ba người anh ruột của ta
đều bị các ngươi hại chết ư? Diễu võ dương oai rằng mẹ ta đã bị mẹ ngươi ép đến nỗi mạng sống chỉ còn sớm tối ư?”
Di Bành nghi hoặc hỏi: “Ngươi nói bậy gì thế? Chẳng phải Thanh Dương vẫn sống sờ sờ ra đó ư?”
“Đại ca chết rồi, khi ngươi bày kế khiến phụ vương hiểu lầm rằng Đại ca định đầu độc phụ vương, huynh ấy đã uống phải thuốc độc, đúng lúc giao đấu
với Xi Vưu thì độc dược phát tác, Đại ca chết dưới tay Xi Vưu.”
“Vậy Thanh Dương bế quan trị thương dưới đáy Quy khư là giả à?” Di Bành phá
lên cười ha hả, cười đến đứt cả hơi, “Mẹ, mẹ nghe thấy chưa? Hung thủ
hại chết ca ca con đã chết! Mụ già ác độc ấy cũng sắp chết rồi!”
A Hành lạnh lùng quan sát, Di Bành cười chán, mới đưa mắt nhìn A Hành,
hỏi: “Cứ theo tính tình của ngươi, đây hẳn là tế lễ ngươi tặng cho ta.
Tiểu muội à, ngươi định giết ta thế nào đây?”
A Hành đáp: “Ta đã ra tay rồi.”
Di Bành cười: “Ta tin, nhưng ta không hiểu.”
“Mấy ngàn năm trước, mẹ ta đã kết bái huynh muội với Viêm Đế, khi ông ấy lâm bệnh nặng, bèn đem Thần Nông Bản Thảo Kinh kết tinh tâm huyết cả đời
tặng lại cho ta.”
Di Bành sực hiểu ra, “Hèn chi ngươi có thể trì hoãn ngày sinh của đồ con hoang kia, nhưng dù có Thần Nông Bản Thảo
Kinh, cũng không thể dễ dàng hạ độc ta được.”
“Ta biết, nhưng
ngươi quên rồi sao? Chúng ta từng học cùng một thầy, ta nắm rõ cách vận
hành linh khí của ngươi. Chất độc dược chia làm hai phần, phần thứ nhất, chính là ở đây.” A Hành nhìn về phía mộ Đồng Ngư thị, “Mấy ngày nay
ngươi luôn quỳ ở đây suốt đêm, trong lúc thương tâm, linh lực hộ thể
cũng yếu đi nhiều, tà khí rất dễ xâm nhập.”
“Đây là mộ huyệt có linh lực gia trì, nếu có độc nhất định sẽ xảy ra biến hóa.”
“Phải, nên thứ ta dùng không thể gọi là độc dược, ngược lại còn là thuốc bổ,
rất có ích trong việc nâng cao linh lực, có thể giúp linh lực của ngươi
tăng vọt chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Vừa rồi ta vừa tiết lộ với ngươi rằng Thanh Dương đã chết, khiến ngươi kích động, trong lúc cười
sằng sặc đã hít phải rất nhiều thứ không nên hít phải, những thứ đó cũng không phải là độc dược, nhưng khi gặp phải dược chất trong cơ thể
ngươi, lại kết hợp với phương thức vận hành linh lực đặc thù của ngươi
nữa, sẽ dẫn tất cả linh lực của ngươi tụ về tim, sau cùng, tim ngươi sẽ
không chịu đựng nổi linh lực mạnh mẽ của bản thân mà nổ tung.”
Thấy Di Bành sững người, A Hành lại nói: “Ta là đồ đệ của Viêm Đế Thần Nông
Thị, chứ không phải đồ đệ của Cửu Lê Độc vương, không nhất thiết phải hạ độc mới có thể lấy mạng người.”
Sống đã chẳng có gì vui, thì
chết có gì đáng sợ? Di Bành cười, ngưng tụ linh lực toàn thân, toan một
chưởng đánh chết A Hành, “Vậy cũng hay, chúng ta cùng lên đường thôi!”
A Hành đứng yên không nhúc nhích. Chưởng lực của Di Bành mới đánh xuống nửa chừng, hắn đã ngã gục trước mộ.
Tất cả linh lực vừa rồi hắn ngưng tụ đều cuộn lên đổ về tim, huyết quản
trong ngực cơ hồ muốn vỡ tung, đau đến nỗi hắn co rúm người lại.
Di Bành ra sức khắc chế linh khí chạy loạn trong mình, sắc mặt từ trắng
đổi sang xanh, lại từ xanh đổi sang đỏ, vô số linh khí tựa như vô số con rắn độc cắn xé trái tim hắn, khiến cơ mặt hắn giật giật vì đau đớn.
A Hành ngồi xuống bên cạnh Di Bành, ánh mắt vô cùng phức tạp, nàng hận
hắn, nên mới bày ra cách chết đầy đau đớn này dành cho hắn, nhưng hiện
giờ nhìn hắn đau đớn vật vã, lòng nàng cũng đau khổ chẳng kém.
“Di Bành, nếu ta không giết ngươi, ngươi có hạ sát thủ với Chuyên Húc chăng?”
Di Bành đau đến méo mặt, nhưng vẫn cười sằng sặc, hung hăng đáp: “Có! Mẹ
nó đã giết mẹ ta, sao ta có thể tha cho nó được? Các ngươi đều phải
chết… Á á!” Di Bành đau đến nói không nên lời, hai tay bắt đầu cào cấu
lên ngực. Y phục đều bị hắn xé rách, để lộ vết thương trên vai trái, là
năm vết thâm tròn tròn, nhìn giống hệt một dấu thần chú.
A Hành chợt biến sắc mặt, hai mắt ầng ậng nước.
“A… A…” Di Bành đau đớn thét lên, ngã xuống dưới chân A Hành, cả ngươi co rúm ró, vết thương trên vai càng hiện rõ hơn.
A Hành run rẩy đưa tay ra, đặt lên vai Di Bành, truyền linh lực vào cơ
thể hắn, toan làm giảm đau đớn. Di Bành vung tay hất nàng ra, “Ngươi cút ra!” Nàng vẫn chẳng hề tránh né, mặc cho Di Bành đánh đã, tay áo bị hắn xé toạc, lộ ra cả cánh tay. Trên cánh tay nàng cũng có một vết thương,
giống hệt vết thương trên vai Di Bành, trông như nửa dấu chân thú vậy.
Cánh tay Di Bành đang định đánh vào tay nàng, chợt khựng lại.
Linh lực của A Hành bắt đầu phát huy tác dụng, cơn đau dần dần dịu hẳn. Cơn
đau lui đi, dường như cũng cuốn theo tất cả bi thương oán hận trong
lòng, trái tim hắn tựa hồ biến thành một đầm nước trong veo, ánh mặt
trời rọi xuống, xuyên qua thời gian dằng dặc, nhìn thấu tận đáy đầm, nơi đó, có một cậu thiếu niên vô tư vô lự, còn chưa biết ưu sầu.
Phụ vương quy định cho hắn và A Hành cùng nhau đọc sách, còn chọn cho cả
hai một vị sư phụ, nhưng mẹ lại cấm hắn nói chuyện với A Hành. Mỗi sáng A Hành đều nấp bên góc tường đợi hắn, cùng hắm nắm tay nhau tới lớp.
Chiều hè, cả hai lại cùng nhau nhảy từ trên cây cầu cao ngất xuống nước, đọ
xem bọt nước của ai làm bắn lên to hơn. Mùa đông tuyết rơi, hai người
cùng nằm lăn ra trên mặt tuyết, dùng sọt úp chim tước. Hắn tặng A Hành
con anh vũ mình yêu thích nhất, A Hành cũng thêu hầu bao cho hắn, một
chiếc hầu bao có tua tuyệt đẹp.
Trên núi vắng mọc đầy cỏ dại là
khu vườn bí mật của họ, cùng đuổi nhau, cùng bắt bướm, cùng vồ dế, đào
giun, A Hành gọi “Cửu ca, từ từ thôi”, hắn sẽ gọi “A Hành, mau lên”.
Có lẽ vì mẹ và các anh đều cấm họ chơi chung, mà cả hai lại quá bướng
bỉnh, nên càng cấm họ càng thân thiết. Rõ ràng rất thân nhau, nhưng mỗi
lần cả nhà họp mặt, đều phải lờ nhau đi, vờ như không quen, đợi đến nơi
không có ai, lại nhìn nhau cười, lén làm mặt quỷ chòng nhau, hí hửng vì
cha mẹ và các anh không biết bí mật nhỏ của họ.
Mỗi lúc ăn cơm
cùng, vì ngang hàng, hai người ngồi cạnh nhau, chẳng ai dám nói với ai
câu nào, nhưng dưới gầm bàn lại lén lút ta đẩy ngươi, ngươi đánh ta,
cùng mím môi cười vụng.
Nghe nói Tượng Võng thúc thúc bắt được
một con yêu quái rất lợi hại, cả hai rủ nhau trốn học đi xem đại yêu
quái, hai mái đầu chụm lại, thì thầm bàn tính một lát đã ra được vô số
âm mưu quy kế, gạt được tất cả thị vệ. Hai người lẻn vào, vô ý phá vỡ
cầm chế, khiến con yêu quái hung bạo xông ra. Cả hai sợ cuống quýt, vội
co cẳng chạy như bay. A Hành mặc váy nên chạy không được nhanh, bị yêu
quái vồ được, bẻ gãy lìa tay. Hắn ngoảnh lại nhìn A Hành, thấy nửa nửa
người A Hành toàn máu là máu, vẫn không quên hét bảo hắn: “Cửu ca, chạy
mau, chạy mau!”
Hắn vô cùng sợ hãi, rất muốn bỏ chạy, nhưng hắn
còn sợ A Hành bị yêu quái ăn thịt hơn, bèn chạy ngược lại cứu A Hành,
nhảy tưng tưng, huơ huơ tay trước mặt yêu quái, “Đến đây, đến đây, đến
mà bắt tao đây này!”
Con yêu quái bị chọc giận, bèn bỏ lại A
Hành đuổi theo hắn. Hắn chạy không thoát, liền bị yêu quái tóm được,
móng vuốt sắc nhọn của nó xuyên thủng cả vai hắn, chưa hết, một chân kia của nó sắp cắm ngập vào tim hắn. A Hành kéo lê cánh tay gãy, nhảy vọt
lên vai yêu quái, ra sức nện vào mắt nó, vừa nên vừa khóc: “Cửu ca, Cửu
ca, huynh có đau không?”
Hắn không muốn tỏ vẻ yếu đuối như con
gái, bèn gắng gượng làm mặt quỷ với A Hành, vờ như không hề gì, hít một
hơi khí lạnh, nói: “Con yêu quái này cũng lợi hại ghê.”
Nhìn hắn làm mặt quỷ, A Hành phá lên cười.
May sao Tượng Võng thúc thúc đến kịp, cứu được hai đứa. Tuy thúc thúc cùng
các anh đều xin cho, nhưng phụ vương vẫn vô cùng giận dữ, đem nhốt cả
hai lại, còn nói thầy thuốc không được chữa lành sẹo cho hai người, để
cả hai trông thấy mà nhớ kỹ lời người lớn.
Những tháng ngày cùng nhau học hành, cùng nhau nô đùa, cùng nhau đối phó với cha mẹ, cùng nhau lừa gạt các anh trai…
Di Bành nắm lấy tay A Hành, vẻ mặt hoang mang vô hạn, tựa hồ không hiểu sao bọn họ lại thành ra thế này.
“A Hành.” Di Bành khẽ gọi. Từ khi Tam ca Hiên Viên Huy chết đi, hắn vẫn khách khí gọi nàng là tiểu muội.
A Hành ròng ròng nước mắt, “Cửu ca.” Từ sau khi Thanh Dương chết đi, đây là lần đầu tiên nàng thật lòng xem hắn là anh trai.
Di Bành mỉm cười, “Nếu chúng ta không bao giờ lớn lên thì hay quá, ta thực muốn được quay về ngày nhỏ như xưa.”
Linh lực của A Hành không kiềm chế nổi linh lực của Di Bành nữa, cơn đau lại tăng lên, Di Bành nhẹ nhàng gỡ thanh chủy thủ A Hành đeo bên eo, cũng
chính là thanh chủy thủ Xương Phó dùng để tự vẫn, gắng chút sức tàn đâm
thẳng vào ngực mình, “A Hành, con yêu quái lần này lợi hại quá, chúng ta đều thua cả rồi.”
“Cửu ca, Cửu ca…”
A Hành hốt hoảng gọi, mắt nhòe nhoẹt nước mắt, đột nhiên, Di Bành lè lưỡi làm mặt quỷ với nàng.
Gương mặt quỷ bỗng cứng đờ, trở thành lời cáo biệt vĩnh hằng.
“Cửu ca!” A Hành ôm lấy Di Bành, khóc không ra tiếng.
Trên triền núi, bươm bướm dập dờn, một đôi thiếu niên thiếu nữ đang chạy nhảy trong gió, tiếng cười rộn rã lan xa.
A Hành, A Hành, mau lên, mau lên!
Cửu ca, Cửu ca, từ từ, từ từ thôi!
Ha ha ha ha… Ha ha ha ha…
Dưới sự cố chấp của Chuyên Húc, mọi người đành đứng đợi trước mộ Xương Ý và Xương Phó.
Trông thấy A Hành sắc mặt tái nhợt, lảo đảo tiến lại, Tiểu Tông Bá lập tức tuyên bố bắt đầu nghi thức.
Trong tay A Hành nắm chặt một thanh chủy thủ nhuộm máu là lễ vật nàng và
Thiếu Hạo tặng cho Xương Ý và Xương Phó nhân ngày thành hôn, là thanh
chủy thủ đâm chết Đồng Ngư thị, cũng là thanh chủy thủ Xương Phó dùng để tự vẫn, nhưng hôm nay, sao nó lại nhuốm máu?
Trong tiếng nhạc
ai oán, A Hành cắm phập thanh chủy thủ trước mộ, “Tứ tẩu, tẩu yên tâm đi cùng Tứ ca đi, không còn ai có thể làm hại Chuyên Húc nữa đâu.”
Người khác không hiểu nàng đang nói gì, chỉ mình Hoàng Đế biến sắc mặt: “Hành nhi, rốt cuộc con đã làm gì hả?”
“Con kết thúc tất cả mọi chuyện rồi!” A Hành đứng đó, thân mình lảo đảo như
thể gió thổi cũng ngã, nhưng gương mặt lại quật cường lạnh lẽo đến không ngờ.
Hoàng Đế giật thót mình, vội quay phắt người chạy về phía mộ Đồng Ngư thị.
Hồi lâu sau, chợt nghe trong rừng sâu vọng ra một tiếng kêu thê lương mà
ngắn ngủi. Thân mình A Hành lảo đảo như sắp ngã, nhưng nàng vẫn cắn
lưỡi, gắng gượng đứng vững.
Nàng bế Chuyên Húc lên, “Chúng ta về nhà thôi, về xem bà nội và Tiểu Yêu thế nào.”
Chuyên Húc nắm lấy thanh chủy thủ bằng cả hai tay, “Vậy còn cái này? Để lại cho mẹ con à?”
“Con giữ lấy mà hộ thân, để mẹ con được yên lòng.”
Chuyên Húc ôm lấy thanh chủy thủ, khóe môi mím chặt, chăm chú nhìn ngôi mộ cha mẹ, kiên quyết gật đầu như thầm hứa.
A Hành vừa đặt chân vào Triêu Vân điện, Hoàng Đế đã xách kiếm bám theo sát gót.
Chẳng để đám thị nữ bẩm cáo, Hoàng Đế xông thẳng vào, vung kiếm toan lấy mạng A Hành, Chu Du định ngăn lại mà không ngăn nổi, Cửu Dao hoảng sợ khóc
ré lên, vừa khóc vừa cùng Chuyên Húc một trái một phải ôm ghì lấy chân
Hoàng Đế, nhưng chẳng cản được bước chân ông.
A Hành ngồi yên bất động, ngẩng đầu chăm chú nhìn Hoàng đế, không hề sợ hãi.
Hoàng Đế giơ cao kiếm, bàn tay run bắn lên, vung kiếm định chém xuống.
“Ông muốn giết thì giết tôi trước đi!” Giọng già nua yếu ớt của Luy Tổ chợt vang lên.
Thì ra, Vân Tang thấy tình hình không ổn, lập tức chạy đi tìm Luy Tổ, bấy giờ nàng vừa đỡ Luy Tổ hớt hải chạy đến.
Hoàng Đế giật mình, nhát kiếm lệch đi, không chém trúng A Hành. Ông ngoảnh
lại trừng mắt nhìn Luy Tổ, trỏ vào A Hành hỏi: “Bà có biết nó đã làm gì
không? Nó giết Di Bành ngay trước mộ Đồng Ngư đấy, máu Di Bành loang đỏ
cả nấm mộ…” Hoàng Đế run giọng, không nói tiếp được nữa.
Luy Tổ lạnh lùng hỏi lại: “Ông đã điều tra chưa? Sao có thể không truy xét gì đã định tội cho Hành nhỉ?”
Hoàng Đế cười thâm, giễu cợt hỏi: “Còn cần tra xét nữa ư?” Ông trợn mắt nhìn A Hành, “Là mày làm phải không?”
A Hành thản nhiên nhìn Hoàng Đế, hờ hững hỏi: “Phụ vương thấy thế à? Ngàn năm trước, khi Nhị ca chết đi, nếu phụ vương có thể trả lời rõ ràng câu hỏi của Đại ca, thì đâu có câu hỏi ngày hôm nay.”
Hoàng Đế chợt run bắn lên, thanh kiếm trong tay keng một tiếng rơi xuống sàn: “Mày đã không còn là Hành nhi con gái ta nữa rồi!” Ông trừng trừng nhìn A Hành, thê lương nói: “Sau khi Vân Trạch chết đi, ta đã sợ rằng sẽ có ngày
này. Ta bất chấp mọi người phản đối, cố ý cho mày và Di Bành học chung
một thầy, để cả hai cùng học cùng chơi, cùng nhau lớn lên, chính là hy
vọng không xảy ra sự việc ngày nay.”
Đoạn ông tóm lấy cánh tay A Hành, “Nhìn thấy vết thương này không? Còn nhớ Di Bành đã cứu mày thế
nào không? Ta lệnh cho thầy thuốc không chữa lành sẹo, không phải để
trừng phạt hai đứa bướng bỉnh, mà là để hai đứa suốt đời phải ghi nhớ,
hai đứa là huynh muội, một giọt máu đào hơn ao nước lã!” Nói rồi ông ném cánh tay A Hành xuống: “Vết thương này cả đời mày cũng không xóa được,
ngày ngày mày sẽ phải ghi nhớ rằng mày đã giết chết Di Bành, mày cứ ôm
lấy ký ức ấy mà sống đi, sống một ngày là đau khổ một ngày!”. Dứt lời,
Hoàng Đế quay phắt người, rời khỏi Triêu Vân điện.