A Hành thoáng vẻ ngượng ngùng, nhưng giọng nói vẫn rất kiên
quyết, “Thiếp đã hứa với Xi Vưu rằng sẽ ở bên hắn, hắn đi đâu
thì thiếp đi đó.” Câu nói hằng ấp ủ trong lòng cuối cùng cũng có thể đường đường chính chính nói ra, nàng thấy người nhẹ
nhõm hẳn, như vừa trút bỏ được một tảng đá, cảm giác hết
sức thản nhiên tự tại, bất kế kết quả ra sao.
[1] Trích trong bài từ Thoa đầu phượng của Lục Du (1125-1209). (ND)
Ở Thần Nông, Chúc Dung vừa xuất quan đã hiển lộ thần lực khiến
cả thiên hạ kinh hoàng. Hơn hai trăm năm nay, dưới bàn tay sắt
của Xi Vưu, các danh gia vọng tộc dần dần sa sút, bơ vơ vất
vưởng, mãi đến giờ, nhờ có Chúc Dung như cứu tinh, chẳng mấy
chốc đã tạo nên một lực lượng không thể coi thường, chống đối
lại Xi Vưu.
Tại Cao Tân, sau khi đăng cơ, Thiếu Hạo hết
sức nôn nóng muốn cải tổ mọi thứ, nhưng y biết mình không thể
đi theo con đường của Xi Vưu, bởi y và hắn xuất thân khác nhau.
Lực lượng chủ yếu ủng hộ y là đám quý tộc trẻ nắm giữ binh
quyền, bọn họ nhận ra nguy cơ Cao Tân, mong mỏi Cao Tân giàu mạnh hơn, nhưng không thể chấp nhận công cuộc cải cách mạnh mẽ, hủy diệt lợi ích gia tộc của họ. Bởi thế, Thiếu Hạo đành lựa
chọn phương pháp thay đổi từ từ.
Về phía Hiên Viên, Hoàng Đế ẩn nhẫn mấy ngàn năm, cuối cùng cũng cất lên tiếng kèn đưa quân Đông tiến, chính thức tấn công Thần Nông tộc, giành được
thắng lợi liên tiếp, chẳng những thu lại được đất đai bị xâm
chiếm hai trăm năm trước, mà còn hạ liền một lúc sáu tòa
thành của Thần Nông.
Tin Hiên Viên chiến thắng liên tiếp
báo về khiến Du Võng đứng ngồi không yên, thậm chí Thiếu Hạo
cũng thấp thỏm lo lắng. Y biết Hiên viên vẫn luôn che giấu thực
lực nhưng chẳng ngờ thực lực ấy lại hùng mạnh đến vậy, ít ra thì Cao Tân cũng không thể liên tiếp hạ sáu thành của Thần
Nông như thế. Thêm vào đó, còn một việc mà y vắt óc nghĩ mãi
không ra, tại sao Hoàng Đế lại ồ ạt động binh đúng vào thời
điểm này? Rõ ràng ông ta có thể khoanh tay đứng ngoài để Chúc
Dung và Xi Vưu đấu đá lẫn nhau cho tới khi đôi bên đều tổn thất
thì ra tay làm một mẻ cơ mà. Hiên Viên Hoàng Đế đã nhẫn nhịn
mấy ngàn năm nay, sao bây giờ lại vội động binh?
A Hành đem theo A Tệ và Liệt Dương bay đến Nhược Thủy.
Đây là lần đầu tiên nàng đến thăm đất phong của Tứ ca. Tuy nơi này trập trùng núi biếc, nhưng thế núi không được nguy nga như
phương Bắc, lại thêm bao nhiêu ao hồ sông suối lượn quanh khiến
phong cảnh đượm phần tú lệ.
Đến phủ của Xương Ý, nàng đã cố ý tránh bọn lính canh, định để cho Tứ ca bất ngờ.
Trong khoảng sân nho nhỏ trồng hai gốc nhược mộc đang kết nụ, từng
nụ hoa đỏ hồng chúm chím trên cành chẳng khác nào gọn đèn
lồng lộng lẫy.
“Trước đây ta từng nói đấy thôi, muội là muội muội duy nhất của ta,
dù muội có làm gì đi nữa, ta cũng hết lòng ủng hộ, nếu phụ
vương và Đại ca không chúc phúc cho muội thì còn có ta và mẹ
kia mà.”
Thấy A Hành rơm rớm nước mắt, Xương Ý mỉm cười dỗ dành: “Muội đừng lo, ta không ra trận, cũng chẳng hứng thú
với việc giao tranh. Tuy ta không thể khuyên can phụ vương đừng
tranh đoạt thiên hạ nhưng ít ra ta cũng không để các dũng sĩ
Nhược Thủy trở thành xương trắng lót đường cho phụ vương bước
lên vương tọa đâu. Bọn họ phải được sống bên người mình thương
mến, cùng nhau sinh con đẻ cái đến đầu bạc răng long.”
Thấy A Hành gật gật đầu, Xương Phó cười trêu nàng, “Được rồi, tiểu nha đầu muội trốn theo tình lang thì mau thu dọn hành lý đi,
không cần lo chúng ta đối đầu với tình lang muội trên chiến
trường đâu.”
A Hành tươi cười đứng dậy, “Vậy muội đi đây.”
“Muội không muốn nán lại một đêm ư?”
“Thôi, mười ngày tới là hôn lễ của Nặc Nại và Vân Tang rồi, Thiếu
Hạo giao cho muội phụ trách chuẩn bị, chắc đây là công việc
cuối cùng của muội tại Cao Tân. Vì Vân Tang, muội không thể để
sơ sẩy điều gì được.”
Tiễn nàng ra cửa, Xương Ý còn
cười nói: “Năm xưa khi Vân Tang còn ở Triêu Vân phong, ta từng lén bảo mẹ xui Đại ca cưới Vân Tang tỷ tỷ làm Đại tẩu. Mẹ cũng
xiêu xiêu, nói rằng cứ mặc cho hai người bọn họ ở bên nhau,
thuận theo tự nhiên. Tiếc rằng sau đó Tinh Vệ chết đuối ở dưới Đông Hải, Vân Tang chỉ ở Triêu Vân phong mười năm đã phải vội
quay về Thần Nông sơn. Mà trong mười năm đó, Đại ca chẳng về
Triêu Vân phong lần nào, hai người bọn họ còn chưa có dịp gặp
mặt. Nếu họ gặp nhau một lần, không chừng hỷ sự này lại rơi
vào nhà ta ấy chứ.”
A Hành bật cười theo: “Tiếc thật tiếc thật.”
A Hành thoáng vẻ ngượng ngùng, nhưng giọng nói vẫn rất kiên
quyết, “Thiếp đã hứa với Xi Vưu rằng sẽ ở bên hắn, hắn đi đâu
thì thiếp đi đó.” Câu nói hằng ấp ủ trong lòng cuối cùng cũng có thể đường đường chính chính nói ra, nàng thấy người nhẹ
nhõm hẳn, như vừa trút bỏ được một tảng đá, cảm giác hết
sức thản nhiên tự tại, bất kế kết quả ra sao.
Thấy
Thiếu Hạo cau mày trầm tư, A Hành nôn nóng bồi thêm, “Đây là
giao ước giữa chúng ta đó! Giờ chàng đã thành vua một nước,
tuy yêu cầu này có phần hoang đường, nhưng chẳng gây thiệt hại
gì cho dân chúng Cao Tân, cũng không ảnh hưởng gì đến an nguy
của chàng cả, dựa vào cơ trí và tài năng của mình, chàng
hoàn toàn có thể sắp xếp ổn thỏa kia mà.”
Thiếu Hạo
mỉm cười: “Nàng đừng nóng, ta đã hứa thì nhất định sẽ thực
hiện. Chỉ là ta đang nghĩ nên làm thế nào thôi.”
A Hành
nghe vậy mới thở phào. Thiếu Hạo nói tiếp: “Cuộc hôn nhân của
chúng ta thực chất là đại diện cho mối liên minh giữa hai bộ
tộc. Hiện giờ Hoàng Đế đang tiến hành đánh Thần Nông, chắc
chắn không muốn phá vỡ liên minh, còn ta vừa mới đăng cơ, đế vị chưa vững, cũng chẳng thể hủy bỏ liên minh này.”
“Thiếp hiểu, mẹ và đại ca thiếp cũng không muốn phá vỡ mối liên minh này.”
Thiếu Hạo ngẫm nghĩ, “Ta định nhận Xương Phó, Tứ tẩu của nàng làm
muội muội, dùng đại điển long trọng nhất sách phong nàng ta
làm vương cơ Cao Tân, như vậy có nghĩa là, qua Xương Phó và Xương Ý, ta và Hoàng Đế vẫn giữ mối thông gia với nhau, đồng thời
làm tăng thêm giá trị của Xương Phó và Xương Ý trong lòng Hoàng Đế, dù sau này Hoàng Đế có giận nàng, cũng không đến nỗi
trút giận lên Tứ ca và mẫu hậu nàng.”
Thiếu Hạo quả
là nhân tài xuất chúng, thoáng chốc đã nghĩ ra giải pháp vẹn
cả đôi đàng thế này. A Hành mừng khôn tả xiết, luôn miệng cảm
ơn y rối rít.
Thật ra, trong lòng Thiếu Hạo còn ấp ủ
một kế hoạch quan trọng hơn, nếu Thanh Dương có thể thuận lợi
đăng cơ thì dù A Hành có muốn đi hay ở đều có thể giải quyết
ổn thỏa, chỉ là hiện giờ y không thể tiết lộ với nàng, nhất
định phải vỗ yên A Hành, tranh thủ thời gian giúp Thanh Dương
giành được đế vị.
Thiếu Hạo đề nghị: “Cho ta chút thời gian để sắp xếp, được không? Kỳ thực Thanh Dương thương nàng hơn ai hết, hai người bọn ta chắc chắn sẽ trả lại tự do cho
nàng.”
A Hành đang mừng rỡ, liền đồng ý ngay: “Một lời đã định chứ?”
“Một lời đã định!” Thiếu Hạo phóng mắt ra ngoài cửa sổ, nhìn lên
bầu trời đêm thăm thẳm không một ánh sao. Giờ đây Thanh Dương đang làm gì? Hoàng Đế đã bắt đầu “sinh bệnh” hay chưa? Chỉ cần
Thanh Dương đăng cơ thì việc trả tự do cho A Hành dễ như trở bàn tay.
Y còn dặn thêm: “Trong thời gian chuẩn bị rời khỏi
Cao Tân này, nàng có thể tự do ra vào Ngũ Thần sơn nhưng đừng
để Xi Vưu lên đây nữa, đám thị vệ đã đổi trận pháp mới rồi.”
Thường Hy bộ, Yến Long? A Hành dần hiểu được lại lịch của Khấp Nữ, thì ra đó chính là cô gái từng có hôn ước với Nặc Nại, cái tên Khấp Nữ hẳn là vì bị Nặc Nại ruồng rẫy
mà khóc khô nước mắt. Có điều trước đây Nặc Nại và cô ta chưa từng gặp
nhau, dù ngưỡng mộ dung mạo và tài hoa của y rồi bị y phũ phàng từ hôn,
cũng đâu đến nỗi phải lao tâm ẩn náu bên y suốt hai trăm năm, để cuối
cùng yêu y tha thiết, đành dùng cái chết phản đổi hôn sự này.
Thấy đôi môi anh đào của Bạch Nguyệt hơi he hé như đang ngậm vật gì đó, Nạc
Nại liền nhẹ nhàng vạch miệng cô, lập tức một miếng bạch ngọc rơi xuống
tay y, cặp mắt cô cũng theo đó mà khép lại, tựa hồ đã nói hết điều cần
nói, từ nay yên lòng ra đi.
Nặc Nại run lẩy bẩy, nắm chặt lấy
miếng ngọc, trừng trừng nhìn Thiếu Hạo, thét lên: “Năm xưa rốt cuộc
ngươi đã làm gì để ép Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước hả?”
An Dung
vội túm lấy chặt tay Nặc Nại, đẩy cho An Tấn giữ, rồi quỳ xuống dập đầu
thỉnh tội với Thiếu Hạo, “Nặc Nại bi thương nôn nóng quá độ, nói năng
không biết giữ gìn, xin bệ hạ niệm tình tha cho tội bất kính.”
Đột nhiên từ đằng xa vang lên tiếng la thét và khóc than, xem ra Thường Hy
bộ đã nghe ngóng được tin, đang dẫn người đuổi tới. Kẻ nào đó còn cao
giọng la lớn: “Giết chết Nặc Nại! Bắt hắn đền mạng cho tiểu thư!”
An Dung vội tâu: “Băng Nguyệt là biểu muội của Yến Long và Trung Dung, lại bị Nặc Nại từ hôn, e rằng chuyện này đã bị Trung Dung lợi dụng, gây ra
đại loạn. Để bảo đảm an toàn, xin mời bệ hạ và vương phi lập tức về
cung.”
Thiếu Hạo gật đầu, “Để bảo đảm an toàn cho Nặc Nại, đưa cả hắn về Thừa Ân cung cùng chúng ta.”
Cả đoàn người vội vã trở về Thừa Ân cung.
Thiếu Hạo cho tất cả thị vệ lui ra, chỉ để lại mình, A Hành và Nặc Nại, rồi
lẳng lặng nhìn y chờ đợi. Nặc Nại cầm mảnh bạch ngọc đặt xuống trước mặt Thiếu Hạo, chất vấn: “Bệ hạ học thức uyên bác, hẳn biết rõ thứ này là
gì? Vì sao Băng Nguyệt tiểu thư phải ngậm nó mà tự vẫn chứ?”
A
Hành trân trân nhìn miếng ngọc trắng tinh thuần khiết trên bàn, sực nhớ
tới một câu chuyện lưu truyền trong đám khuê các ở Cao Tân. Chuyện kể
rằng có cô gái đã có hôn ước nhưng cha mẹ cô thèm muốn quyền thế, ép con gái cải giá. Trước ngày đại hôn, cô gái tiết liệt đó tự ví mình như
bạch ngọc, trong trắng tinh khiết, quyết không thể làm hoen ố, bèn nắm
lấy miếng ngọc trắng mà hôn phu khi trước tặng, nhảy xuống sông mà chết. Từ đó, khi nữ tử Cao Tân xuất giá, thường nắm một miếng bạch ngọc trong tay, tượng trưng cho phẩm chất của mình, kiên trinh thanh bạch như ngọc trắng.
Thiếu Hạo thẫn thờ nhìn miếng ngọc trên bàn, vẻ mặt phức tạp, hồi lâu mới lên tiếng: “Năm xưa, ngươi say rượu rồi ngang nhiên
hẹn ước chuyện hôn nhân trước mặt mấy vị vương tử, phụ vương hết sức coi trọng lễ nghi, hậu cung lại bị tỷ muội Thường Hy thị thao túng hoàn
toàn, hôn sự này coi như đã được xác định, không cách nào thoái thác
được. Ta đã vắt óc tìm trăm phương nghìn cách, nhưng tất cả đều vô dụng. Có điều bất kể vì ngươi hay vì chính bản thân ta, ngươi cũng không thể
cưới một nữ tử Thường Hy thị được. Cuối cùng ta đành dùng hạ sách, sai
người gài bẫy Băng Nguyệt, chứng minh cô ta đã thất thân với kẻ khác,
mới bức được Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước.”
“Ngươi…” Nặc Nại tím mặt lại, khàn giọng hỏi: “Ngươi có biết danh tiết của nữ tử Cao Tân quan trọng nhường nào không?”
“Dĩ nhiên ta biết, nhưng nếu ta không làm vậy, ngươi có biết hậu quả sẽ ra
sao không? Băng Nguyệt bị người nhà làm công cụ, gả cho kẻ đã có ý trung nhân là ngươi, chẳng nhẽ ngươi sẽ tìm được hạnh phúc ư? Hy Hòa bộ quy
thuận Yến Long, ngươi đành lòng giương mắt nhìn Yến Long giết chết ta,
An Dung, An Tấn sao?”
Nặc Nại bỗng sụp xuống ủ rũ, nói cho cùng, tất cả đều tại y hồ đồ tự chuốc vạ vào thân. Thiếu Hạo chỉ giúp y thu
dọn cục diện mà thôi.
“Thực ra, ta vốn định đền bù cho Băng Nguyệt.”
Nặc Nại giễu cợt: “Đền bù ư? Ngươi dùng thủ đoạn hạ lưu đó đối phó với một
nữ tử yếu đuối bơ vơ, định lấy gì để đền bù đây? Dù ngươi có dùng uy
quyền ép buộc kẻ nào đó kết hôn với nàng, thì phu quân của nàng cũng sẽ
khinh miệt nàng suốt đời!”
“Nhất định không có chuyện đó! Bởi vì ta định sẽ cưới nàng, đương nhiên ta biết nàng còn thanh bạch!”
Nặc Nại sững người, Thiếu Hạo cay đắng nói tiếp: “Lúc đó ta định sau khi
đăng cơ sẽ cưới nàng vào cung, long trọng sách phong nàng, vừa để đền
bù, cũng vừa là bảo toàn nàng, đồng thời có thể giúp ta chia rẽ, lôi kéo Thường Hy bộ, nhưng…” Thiếu Hạo liếc nhìn A Hành, “Nhưng gần đây nhiều
việc bộn bề, nhất thời chưa nghĩ tới chuyện lập thêm phi tần, nào ngờ
lại chậm một bước.”
Nặc Nại thẫn thờ hồi lâu rồi phá lên cười
thê thiết, dập đầu binh binh lạy Thiếu Hạo, “Thuở nhỏ ngươi thường chê
ta hành sự quá cảm tính, còn ta lại cười ngươi làm việc quá lý trí kín
kẽ, cái chết của Băng Nguyệt nói cho cùng đều là lỗi của ta, ngươi chẳng làm gì sai cả, khi nãy ta nóng giận trách lầm ngươi là bởi ta sợ sẽ mất đi tất cả, không dám thừa nhận chính mình đã hại chết Khấp Nữ… Băng
Nguyệt.” Dứt lời, y đứng dậy, liêu xiêu bước ra khỏi điện.
“Nặc Nại.” A Hành cuống quýt gọi giật y lại, ngập ngừng hỏi, “Vân Tang… tỷ ấp làm sao đây?”
Nặc Nại ngoảnh lại nhìn nàng, vẻ mặt đau đớn in hằn trên mặt, ánh mắt chất
chứa tuyệt vọng: “Vương phi nghĩ nàng có thể hân hoan bước qua cổng
thành từng lủng lẳng thi thể Băng Nguyệt mà gả cho ta không? Ta đã hại
chết Băng Nguyệt, chẳng lẽ còn muốn Vân Tang phải gánh lấy lời sỉ vả của người trong thiên hạ hay sao?”
Đột nhiên trước mặt A Hành hiện
lên cảnh tượng Băng Nguyệt thân mang áo cưới, đầu đội mũ phượng, treo
lủng lẳng trước cổng thành, cặp mắt tròn xoe trong vắt vẫn chăm chăm
nhìn Nặc Nại. Nàng chợt thấy hơi lạnh từ đáy lòng lan đến đầu lưỡi,
khiến lưỡi nàng đông cứng chẳng thốt nên lời, đành giương mắt nhìn Nặc
Nại lảo đảo đi khỏi.
Suốt mấy ngày, bên ngoài cung náo động hỗn
loạn, không sao dẹp yên được, nhưng trong cung lại yên lặng như tờ.
Thiếu Hạo sợ bọn Trung Dung lấy cớ giết chết Nặc Nại, bèn ra lệnh giám
sát Nặc Nại thật chặt, không cho phép y rời Thừa Ân cung nữa bước.
Nhờ Thiếu Hạo ra sức át đi, việc Băng Nguyệt tự vẫn cũng dần dần lắng
xuống, chẳng ai dám nhắc đến cái chết của cô, càng không ai dám đả động
đến hôn sự của Vân Tang và Nặc Nại nữa, như thể chuyện đó chưa hề tồn
tại.
Nặc Nại đều ngày ngày uống say bí tỉ, không một ai tới tìm y, y cũng chẳng hề hé răng nói năng gì, chỉ ôm lấy hũ rượu ngủ vùi.
A Hành không biết làm sao, đành đi hỏi Thiếu Hạo. Y đáp: “Băng Nguyệt ở
bên Nặc Nại suốt hai trăm năm, đã trở thành thân tín của Nặc Nại. Rõ
ràng nàng ta có vô số cơ hội báo thù y, vậy mà lại chọn lấy cách tuyệt
vọng nhất. Nàng ta vận đồ tân nương, trang điểm lộng lẫy rồi treo cổ tự
vẫn ngay trước cổng thành chính là muốn phá tan hôn lễ của Vân Tang và
Nặc Nại. Trung Dung lại nhân cơ hội làm toáng chuyện này lên, khiến toàn thành đều biết Nặc Nại hủy hôn để lấy người khác, tham vọng trèo cao,
vì muốn kết hôn với Trưởng vương cơ Thần Nông địa vị cao quý mà bức một
nữ tử thanh bạch kiên trinh vào đường cùng, phải lấy cái chết tỏ lòng.
Hiện giờ cả Cao Tân đều đang chửi rủa Nặc Nại, căm ghét Vân Tang. Ta có
thể áp chế bọn Trung Dung nhưng không thể bịt được miệng dân chúng, đừng nói là hôn sự của hai người họ, ngay chức tước của Nặc Nại cũng khó mà
giữ được, mấy hôm nay ngày nào cũng có quan viên dâng sớ vạch tội y.”
Thiếu Hạo đẩy một chồng tấu sớ tới trước mặt A Hành.
A Hành buồn bã: “Hết cách thật rồi sao?”
Thiếu Hạo trầm ngâm đáp: “Đành chờ thời gian đưa ra kết quả cuối cùng chứ
biết sao. Vết thương Băng Nguyệt gây ra cho Nặc Nại cũng cần thời gian
bình phục, dân chúng mãi rồi sẽ quên lãng chuyện này thôi.”
A
Hành đành viết thư an ủi Vân Tang. Vân Tang gửi thư phúc đáp, giọng điệu vẫn vô cùng bình thản, hệt như tính tình Vân Tang vậy, càng ở vào thời
khắc bi thương lại càng trấn tĩnh. Vân Tang còn tha thiết khuyên nàng:
đời người biến ảo khó lường, họa phúc chỉ cách nhau gang tấc, quan trọng nhất là biết trân quý cái mình đang nắm giữ, đừng để Xi Vưu mòn mỏi đợi chờ thêm nữa!
A Hành nắm chặt phong thư, ngẩng đầu nhìn ra
ngoài cửa sổ, chớp mắt đã sắp mùng tám tháng Tư, lại đến tết Khiêu Hoa ở Cửu Lê rồi. Nàng chợt thấy mình không sao chịu nỗi bầu không khí nặng
nề u ám ở Thừa Ân cung nữa, nàng muốn gặp Xi Vưu, nàng muốn gặp hắn ngay lập tức.
Sắp xếp xong mọi chuyện trong cung, A Hành liến bay thẳng tới Cửu Lê.
Hoa đào trên núi Cửu Lê nở rộ như lửa như tranh, thấp thoáng giữa rừng đào là căn nhà sàn khép cửa, lặng lẽ đợi người về.
Có lẽ vì tự do đang ở ngay trước mắt, nên khi mở cửa ra, A Hành chợt có
một cảm giác là lạ, khác hẳn trước đây. Nàng bước ra sân phơi, đưa mắt
ngắm núi non quanh đó, càng ngắm càng nghe lòng rộn rã, bèn quanh sang
hỏi A Tệ: “Sau này chúng ta sẽ ở lại đây, được không?”
A Tệ nhoẻn cười, lăn tròn trên mặt đất, huơ huơ bốn chân, tỏ vẻ thích thú.
“Mày thấy thế nào, Liệt Dương?”
Liệt Dương ngồi vắt vẻo trên cành đào, hờ hững đáp: “Cô thấy thích là được.”
A Hành vỗ tay đánh đét: “Hay lắm, vậy từ mai chúng ta bắt đầu bày biện nhà của bọn mình!”
Sáng hôm sau tỉnh dậy, A Hành ra chợ dạo quanh một vòng mua cả đống đồ đạc,
về tới nhà đã thấy Liệt Dương và A Tệ quét dọn sạch sẽ phòng ốc từ trong ra ngoài, khiến ngôi nhà sàn được thay áo mới.
A Hành sắp xếp
phòng ở cho mình và Xi Vưu xong, lại bố trí riêng cho Liệt Dương một căn phòng, đồng thời làm luôn cho nó một cái tổ trên cây, rồi quay sang hỏi A Tệ: “Hàng ngày mày ngủ dưới gốc đào, bầu bạn cùng Liệt Dương, khi nào mưa thì lên nhà sàn, được không?”
A Tệ hớn hở chạy vòng vòng quanh gốc đào.
Xong xuôi mọi việc, A Hành đứng trước nhà quan sát từng thứ một, rèm bích
loa, sa thiên thanh, trúc phượng vĩ, rừng hoa đào… hình như còn thiếu gì đó?
Nàng chạy vút vào nhà, lục rương cũ lấy ra chiếc chuông gió bằng răng thú vẫn treo trên Ngọc sơn năm xưa, tuy chuông gió đã úa màu
thời gian nhưng lại đượm một niềm ngậm ngùi xưa cũ.
Treo dưới
hiên nhà, gió vừa lướt qua, từng chuỗi tinh tinh tang tang, tang tang
tinh tinh lại cất lên êm đềm hệt như ba trăm năm về trước.
Xi Vưu cưỡi Tiêu Dao đến Cửu Lê, đã thấy A Hành đợi dưới cội đào tự khi nào.
Hắn vội nhảy xuống ôm chầm lấy A Hành, cười hỏi: “Nàng đến lâu chưa? Đi nghe sơn ca không?”
A Hành lắc đầu cười rồi kéo tay hắn: “Mình về nhà đi.”
Hoa đào nở đỏ rực rỡ trên núi, căn nhà sàn biếc xanh sắc trúc thấp thoáng
giữa rừng hoa, chưa lại gần đã nghe thấy tiếng chuông gió tinh tang, như không như có, êm đềm rất mực. Xi Vưu bất giác rảo bước thật mau, đến
khi tới trước cửa nhà, hắn bỗng sáng cả mắt lên.
Xung quanh nhà
là một hàng giậu trúc, bên giậu trồng đủ tường vi, thạch cúc, khiên
ngưu, đỗ quyên… vàng, đỏ, trắng, lam… các loại hoa đủ màu sắc nở rực
trước giậu. Sau nhà còn một mảnh vườn mới cuốc, Liệt Dương đang chỉ huy
hơn mười mấy chú chim bay qua bay lại gieo hạt, tíu tít cả lên, trong
khi A Tệ uể oải nằm dài dưới gốc đào, thoạt nhìn hệt như một con chó
canh cửa.
Xi Vưu đứng ngây ra, sững sờ. Từ bé hắn lớn lên nơi
rừng hoang núi vắng, ngạo nghễ tự tại giữa sơn lâm, thả sức rong ruổi
cùng mây nước, cả đất trời đều thuộc về hắn, nhưng hắn chưa từng có một
mái nhà. Thuở nhỏ hắn từng trông thấy mỗi khi khói bếp lững lờ bốc lên,
đám trẻ đều hớn hở chạy về nhà trong tiếng ời ời của mẹ, hồi đó hắn còn
chưa hiểu tại sao mình thà bị đánh đuổi cũng vẫn quanh quẩn gần làng
mạc, không chịu bỏ đi, về sau mới vỡ lẽ ra, hắn mới thật sự hiểu ra, đứa trẻ hoang dã, sống cuộc sống như muông thú năm xưa cứ quanh quẩn ngoài
bản, nấp trong rừng lén rình rập từng nhà, bởi nó cũng khao khát được
bước vào một ngôi nhà thuộc về mình.
Xi Vưu cố nén bao niềm cảm
khái đang cuộn trào trong lòng, lên tiếng: “Nếu mở cửa ra lại thấy một
mâm cơm sẵn sàng nữa, mới đúng là về nhà.”
A Hành liền vén rèm lên: “Chúng mình về nhà thôi.”
Đồ ăn trên bàn đang bốc hơi nghi ngút, mùi thơm nức mũi. Xi Vưu lặng lẽ
tiến lại, ngồi xuống ăn hết sức ngon lành. A Hành cũng ngồi xuống cạnh
hắn nhưng vừa nếm một miếng đã cau mày, nàng chỉ quen trồng hoa tỉa lá
chứ chẳng giỏi nấu ăn, mấy món này quả là miễn cưỡng lắm mới nuốt được.
Xi Vưu cười bảo: “Từ sau cứ để ta làm cơm.”
Vừa nghe thấy câu “từ sau”, A Hành đã mừng rơn, gật đầu lia lịa, “Nói lời
phải giữ lấy lời nhé, ai không giữ lời thì là…” Nàng chợt khựng lại,
chửi người khác là súc sinh tức là xúc phạm người ta, nhưng nói Xi Vưu
là súc sinh chẳng khác nào đang khen hắn, làm hắn cao hứng! A Hành cau
mày nặn ra một câu khác, “Ai không giữ lời thì là người!”
Xi Vưu vừa hớp một ngụm Ca tửu, nghe nói liền phun ra.
A Hành nhìn hắn cười khúc khích, trên đời này có niền hạnh phúc nào bằng được trông thấy người mình yêu thương tươi cười chứ?
Dùng cơm xong, hai người lại ra trước cửa ngồi uống trà hóng mát. Xi Vưu hỏi nhỏ: “Căn nhà này là nàng dành cho ta thật ư?”
“Cũng là chàng dành cho ta đó.”
“Thế còn căn nhà của Thiếu Hạo dành cho nàng?”
A Hành cười khúc khích, nhân tiện thừa nước đục thả câu, cố ý trêu Xi
Vưu, “Nếu biểu hiện của chàng tốt, ta sẽ rời xa Thiếu Hạo.”
Bấy
giờ Xi Vưu mới hởi lòng hởi dạ, liền mặt dày nâng cằm A Hành lên, nửa
cười nửa không, hỏi: “Nàng nói về phương diện nào thế? Trên giường hả?”
A Hành thẹn thùng vung tay đấm hắn, Xi Vưu bèn ôm nàng đặt lên đùi, vòng
tay siết chặt lấy A Hành để nàng khỏi vùng vẫy làm loạn. A Hành tựa đầu
vào vai hắn hỏi: “Lần này chàng nán lại được mấy ngày?”
“Nàng ở bao lâu, ta cũng ở bấy lâu.”
“Trong cung đã có con rối thay chân ta, lại được Thiếu Hạo che chở, khó mà
phân biệt được thật giả, hơn nữa mọi người đều biết ta yếu đuối lắm
bệnh, không thể gặp khách khứa, ta có nán lại vài ngày cũng chẳng ai
phát hiện ra đâu, nhưng chàng là Đốc Quốc Đại tướng quân kia mà.”
“Chúc Dung vừa xuất quan đã tất bật bắt tay vào xử lý công việc, mấy trăm năm nay tuy Du Võng không nói ra, nhưng trong lòng hắn cũng thấy ta quá mức tàn bạo, lần này hắn định dựa vào Chúc Dung để xoa dịu nỗi oán giận của đám chư hầu quý tộc kia, nên hiện giờ ta rất nhàn nhã.”
A Hành
hỏi đầy hàm ý: “Chàng nhàn nhã như thế, có thể lui về ở ẩn được chăng?
Chúng ta có thể định cư ở Cửu Lê, chàng trồng đào, ta chăn tằm.”
Xi Vưu cười cười không đáp, hồi lâu mới nói: “Nhất định sẽ có ngày như
thế! Nhưng trồng đào ta thấy suốt ruột lắm. Ta muốn đưa nàng và Tiêu Dao đi làm vài việc mà người đời chưa từng làm qua. Mọi người đều nói Thang cốc là cực Đông của đại hoang, Ngu uyên là cực Tây, Nam minh là cực
Nam, Bắc minh là cực Bắc. Nhưng cực Đông của Thang cốc, cực Tây của Ngu
uyên, cực Nam của Nam minh, cực Bắc của Bắc minh là gì? Lẽ nào Thang cốc Ngu uyên, Nam minh Bắc minh là chốn mênh mông bát ngát không có bến bờ
ư? Tới chừng đó, hai ta sẽ cưỡi Tiêu Dao đi tới nơi mà người đời chưa
từng đặt chân tới.”
“Còn cả Liệt Dương và A Tệ nữa chứ.”
“Ừ, cả Liệt Dương và A Tệ!”
A Hành nhoẻn cười, chìa ngón út ra, “Ngoéo tay treo cổ!”
Xi Vưu cũng bật cười, ngoắc tay với nàng, “Nhất định giữ lời!”
Ngón út của cả hai ngoắc lấy nhau, kéo qua kéo lại mấy lần, còn hai ngón cái lại áo vào nhau, như hai kẻ đang hôn nhau say đắm, bọn họ chăm chú nhìn ngón tay mình rồi phá lên cười, chẳng hẹn mà cùng xòe cả năm ngón tay
ra, đan vào tay đối phương.
Xi Vưu dùng tay kia bế thốc A Hành
vào phòng, đặt lên giường, cởi bỏ y phục của nàng rồi áp tay lên bụng
nàng, từ bụng lần lên ngực, từ ngực lại men xuống cánh tay, đan tay mình vào tay nàng, khăng khăng khít khít.
Chiếc chuông gió dưới hiên nhà lại reo lên rộn rả như trước làn gió xuân hây hẩy.
Ngày tháng giữa núi rừng trôi qua rất mau, thoáng chốc Xi Vưu và A Hành đã ở lại Cửu Lê hơn một tháng.
Có lúc A Hành cảm giác những tháng ngày này sẽ dài ra vô tận, miễn là bọn
họ ở ẩn nơi đây, dù bên ngoài xảy ra chuyện gì cũng không liên quan tới
họ.
Nhưng dù có lãng quên thế giới ngoài kia thì thế giới ngoài kia cũng không chịu bỏ qua cho họ.
Xích điểu mang theo thẻ ngọc bay đến Cửu Lê.
Xi Vưu đọc xong mấy dòng ghi trên thẻ ngọc, ngẩng lên bảo A Hành: “Ta phải về đây. Hoàng Đế ngự giá thân chinh, đã đánh bại Cộng Công, khiến quân
sĩ Thần Nông hoang mang bối rối. Du Võng bị Chúc Dung xúi giục cũng
chuẩn bị ngự giá thân chinh, dẫn quân giao chiến với Hoàng Đế.”
“Gì cơ?” A Hành kinh hoàng, không dám tin vào tai mình nữa.
“Thần tộc đến giờ vẫn còn truyền tụng mãi chuyện ba ngàn năm trước Hiên Viên
Hoàng Đế chỉ trong một đêm hạ mười tám ngọn núi Yên Bắc. Vừa nghe nói
Hoàng Đế ngự giá thân chinh, tướng lĩnh Thần Nông quốc sợ kinh hồn bạt
vía cả. Du Võng liền cử Cộng Cộng ra ứng chiến, nhưng Cộng Công thảm bại khiến trên dưới Thần Nông đều khiếp hãi, kích động sĩ khí, lại được
thêm Chúc Dung xúi bẩy, Du Võng cũng quyết định ngự giá thân chinh, đại
quân đã xuất phát rồi.”
Hoàng Đế và Viêm Đế đích thân giao chiến với nhau ư?
A Hành choáng váng, vội vịn vào song cửa rồi từ từ ngồi phệt xuống đất.
Mới lưu lại nơi đây một tháng mà thế gian đã mây vần gió giục, đất trời
biến sắc nhanh thế kia ư?
Xi Vưu xưa nay quen thói hành sự dứt
khoát, hắn vòng tay siết chặt lấy A Hành lần cuối rồi nhảy lên lưng Tiêu Dao, “Sau khi dẹp yên mọi chuyện, ta sẽ về tìm nàng.”
A Hành lẳng lặng gật đầu mà lòng nặng trĩu, đột nhiên, nàng níu chặt lấy hắn: “Chàng đừng đi có được không?”
Xi Vưu nhướng mày cười, “Nàng hiểu tính người đàn ông của mình mà, A Hành. Lúc ta bị Chúc Dung truy sát, Du Võng nửa đêm tới quỳ xin Viêm Đế thu
hồi lệnh giết ta; sau khi ta đến Thần Nông, mọi người đều khinh bỉ ta,
sợ hãi ta, chỉ có Du Võng đối xử tử tế với ta, mang rượu tới uống cùng
ta; khi ta nổi cơn thịnh nộ đánh bị thương mọi người, trốn khỏi Thần
Nông sơn, ngay đến Viêm Đế cũng quyết định vứt bỏ ta, Du Võng lại đuổi
theo ta suốt đêm, bầu bạn cùng ta mấy ngày. Nếu không có tên Du Võng
hiền từ đôn hậu, nhu nhược, cả nể đó thì cũng chẳng có Xi Vưu ta ngày
hôm nay, chúng ta cũng chẳng thể gặp lại nhau.”
Xi Vưu nói chẳng sai, ngay cả Viêm Đế cũng mưu mô tính toán với hắn vì Thần Nông tộc,
chỉ có mình Du Võng từ trước đến nay luôn chân thành đối đãi, tuy hắn
đối với kẻ địch hết sức hung tàn nhưng đối với ân nhân lại dốc hết sức
hết lòng báo đáp, A Hành còn biết nói gì nữa đây.
Xi Vưu rướn người qua cửa sổ, nồng nàn đặt lên môi nàng một nụ hôn, “Ta đi đây!”
A Hành vẫn bịn rịn nắm chặt tay hắn không buông!
Tiêu Dao từ từ bay lên cao, tay hắn cũng dần rời khỏi tay nàng. Dường như
cũng hiểu được nỗi lòng của A Hành, Tiêu Dao không bay vút đi ngay, mà
chỉ từ từ bay xa dần. Xi Vưu ngoảnh lại quyến luyến nhìn nàng.
Triền núi bạt ngàn những gốc đào, bấy giờ đã bào độ hồng phai lục thắm. Gió
Đông tiễn xuân đi, cuốn theo ngàn ngàn vạn vạn hoa tàn nhị héo lả tả đầy trời. Trong căn nhà sàn xinh xắn lẻ loi giữa rừng đào, A Hành thẫn thờ
bên cửa sổ, nhìn theo dáng Xi Vưu đi khỏi, bóng áo xanh quạnh quẽ càng
thêm phần cô độc giữa một trời thắm đỏ mưa hoa.
Biết Xi Vưu cũng rầu rĩ chẳng nỡ xa mình, A Hành ra sức vẫy tay, cố lấy giọng vui vẻ nói vọng theo: “Lần sau chàng về, chúng mình có thể ăn rau tự trồng lấy
rồi!”
Nghe thấy câu nói của nàng, Xi Vưu chợt thấy lòng bối rối
khôn xiết, khóe mắt cay cay, bao hào tráng chí căng tràn lồng ngực dường như đều hóa thành niềm ôn nhu mềm mại vấn vít giữa ngón tay. Ai bảo anh hùng không xúc động, chẳng qua chỉ là chưa tới lúc rơi lệ mà thôi.
Thấy bóng A Hành xa mờ dần cuối chân trời, Xi Vưu bèn quay ngoắt đi, vừa sai Tiêu Dao tăng tốc, vừa cao giọng ca vang, dốc hết nhiệt tình căng tràn
lồng ngực vào khúc tình ca nồng nàn say đắm, thổ lộ tình cảm trong lòng
mình cho cả trời đất cùng hay.