Từng Thề Ước

Quyển 2 - Chương 8: Nhớ chàng hận chàng, chàng có hay[1]



Nhiều khi, chính sự ủng hộ của người phụ nữ đã tiếp thêm sức mạnh cho người đàn ông, phụ nữ thường hay dựa giẫm vào đàn ộng, lẽ nào đàn ông không cần dựa vào phụ nữ ư?

[1] Trích trong bài Cây tương tư của Lương Khải Siêu (1873-1929) (ND)

Sau khi đại náo Triêu Vân điện, Đồng Ngư thị vừa đánh trống vừa la làng, tức tốc dâng thư lên Hoàng Đế lu loa rằng mình bị làm nhục, Hoàng Đế liền phái người đem thư của Đồng Ngư thị tới Triêu Vân điện.

Xương Ý đọc xong đến run rẩy toàn thân, nắm chặt phong thư định đến trước mặt phụ vương nói rõ trắng đen phải trái, nhưng A Hành kịp ngăn lại. Nàng mỉm cười cầm bút lên viết thư trả lời, cung kính bác bỏ từng “tội danh” một.

Được tin Luy Tổ bệnh nặng, Thiếu Hạo cho rằng trong trăm điều thiện, chữ hiếu đứng đầu, đồng ý để A Hành ở lại Triêu Vân điện chăm sóc mẹ. Thấm thoắt đã một năm, chẳng biết tự khi nào mọi việc trong nhà đều do A Hành làm chủ, từ bài trí Triêu Vân điện, lo liệu việc sinh hoạt ăn uống hằng ngày cho mẹ đến trả lời thư từ của Hoàng Đế, giải quyết công văn các nơi trình lên, nàng đều xử lý gọn gàng đâu ra đấy.

Nhìn A Hành ung dung tươi cười thu xếp mọi việc, Xương Ý vừa xót xa, vừa kính phục.

Thấy Xương Ý thừ người bên song hồi lâu, Xương Phó bèn lại gần, nhìn theo ánh mắt Xương Ý, nàng trông thấy A Hành đang cùng Luy Tổ tản bộ trong rừng dâu.

Xương phó vòng tay ôm lấy Xương Ý từ phía sau, áp mặt vào lưng y, dịu dàng hỏi: “Chàng nghĩ gì thế?”

Xương Ý không ngoảnh lại, chỉ áp tay lên tay Xương Phó, “Khi trước ta cứ nghĩ A Hành cũng như mình, giờ mới hiểu, thật ra con người muội ấy rất giống Đại ca.”

“Ừm, tiểu muội kiên cường hơn thiếp tưởng nhiều.” Thanh Dương bị Xi Vưu giết, Xi Vưu sống chết không rõ, nếu đổi lại là nàng, e rằng chỉ một biến cố đã đủ gục ngã rồi, vậy mà A Hành vẫn đứng vững vàng, còn có thể chăm lo cho người thân bên cạnh nữa.

Xương Ý hỏi nhỏ: “Ta là bậc đại ca vô dụng, phải không? Sớm biết thế này, thà ta cố gắng tu luyện cho giỏi, còn hơn tốn thời gian đọc sách vẽ tranh.”

Xương Phó đau xót ôm chặt lấy Xương Ý, “Đại ca và tiểu muội giống như lưỡi kiếm vậy, nhìn thì sắc bén lợi hại, nhưng rất dễ làm thương tổn bản thân mình, còn chàng lại chính là vỏ kiếm, bề ngoài giản dị thô sơ, nhưng có thể bảo vệ cho lưỡi kiếm yên tâm ngơi nghỉ. A Hành kiên cường được như vậy vì muội ấy biết, sau lưng mình luôn có Tứ ca.”

Đôi mày Xương Ý dần giãn ra, y lấy tay siết chặt tay Xương Phó. Tuy nỗi đau vẫn ngày đêm canh cánh bên lòng, nhưng y hiểu rằng, bất kể lúc nào, hễ y hoang mang yếu đuối, nàng sẽ dang tay ôm lấy y. Nhiều khi, chính sự ủng hộ của người phụ nữ đã tiếp thêm sức mạnh cho người đàn ông, phụ nữ thường hay dựa giẫm vào đàn ông, lẽ nào đàn ông không cần dựa vào phụ nữ ư?

Thấy mặt trời đã lên quá đỉnh đầu, Xương Phó cười nói: “Hôm nay nắng đẹp quá, chúng ta kê mấy chiếc bàn dưới gốc dâu dùng cơm luôn được không?”

“Được.”

Xếp đặt xong xuôi, Xương Phó hào hứng gọi, “Mẫu hậu, tiểu muội lại dùng cơm thôi.”

A Hành đỡ Luy Tổ tiến lại, nhưng vừa ngửi thấy mùi cơm, nàng bỗng thấy dạ quặn lên, choáng váng đầu óc, chỉ muốn nôn. Nàng ọe ọe nôn khan mấy tiếng, Luy Tổ phải đỡ lấy nàng. Sợ mẹ lo cho mình, nàng cười trấn an, “Con không sao, chắc tại hôm qua ăn nhiều, dạ dày biểu tình đó mà.”

Luy Tổ đổi nét mặt, đặt tay lên bụng A Hành cười hiền hậu, “Nha đầu ngốc, cứ khoe khoang giỏi y thuật, thế mà mang thai cả năm trời không biết.”

Xương Ý biến sắc, A Hành cũng tái mặt, may sao Luy Tổ đang mừng rỡ vô vàn nên chẳng kịp nhận ra vẻ khác thường của hai người, “Phải báo ngay cho Thiếu Hạo, nó mà biết chắc sẽ vui lắm đây!”

Xương Phó vội chen vào: “Mẫu hậu, người dùng cơm đi đã, ăn xong rồi tính chuyện báo cho Thiếu Hạo cũng chưa muộn mà, lỡ như Thiếu Hạo mừng quá đón muội muội về ngay, mẫu hậu lại chẳng quyến luyến không rời ấy chứ.”

A Hành lấy lại bình tĩnh nói: “Mẹ, con muốn chính miệng báo tin này cho Thiếu Hạo.”

Luy Tổ cười, “Cũng phải, mẹ mừng quá đâm hồ đồ mất rồi.”

Xong bữa, Xương Ý đưa mắt ra hiệu cho Xương Phó, nàng liền kiếm cớ đỡ Luy Tổ đi trước.

Còn lại hai người, Xương Ý hỏi: “Muội định thế nào? Đây là con của Xi Vưu đó!”

A Hành cúi đầu không đáp, chuyện này quá bất ngờ đối với nàng, vừa nãy mải lo đối phó với mẹ nên chưa có thời gian nghĩ ngợi cho kỹ. Một lúc lâu sau nàng tươi cười ngẩng lên, ánh mắt đầy vui sướng, “Tứ ca, huynh sắp làm bác rồi.”

Xương Ý ngây người. Dù y hận Xi Vưu tới đâu, đứa nhỏ này vẫn là con của A Hành.

“Phải, ta sắp làm bác rồi.” Xương Ý bật cười, lòng rộn những hân hoan, giờ đây y mới hiểu được niềm vui của mẫu hậu, trên thế gian này, chỉ có sinh mệnh mới xua tan được bóng tối của diệt vong mà thôi.

Tiếng cười của Xương Phó vang lên, “Chàng thích trẻ con như vậy, sau này chúng ta cũng sinh một bầy cho vui.” Nói rồi nàng ngồi xuống cạnh Xương Ý, hai tay chống cằm, nheo mắt nói: “Nếu có một bầy con nít xúm xít quanh mẫu hậu, luôn miệng líu lo bà ơi bà hỡi, chắc mẫu hậu phải cười tít mắt suốt ngày.” Nàng chợt vỗ tay đánh bốp, tuyên bố với Xương Ý, “Quyết định thế đi, hai ta mau sinh con thôi, sinh cả một bầy để khắp Triêu Vân phong đâu đâu cũng nghe thấy tiếng con nít nô đùa.”

Thầm nghĩ mình và Xi Vưu chắc chỉ có một đứa con này, A Hành thấy xót xa vô hạn, đành nén lòng cười góp chuyện: “Vậy thì hay quá, cả đám huynh đệ tỷ muội cùng lớn lên bên nhau, rất thú vị.”

Xương Phó gật lấy gật để, hào hứng như thể mình đã có cả đàn con vậy.

Xương Ý cười giễu: “Chỉ vớ vẩn! Trời cho Thần tộc trường sinh, nhưng lại hạn chế số lượng ngặt nghèo, người trong Thần tộc rất khó hoài thai, các cô tưởng thích là được đấy hả?”

Xương Phó cười tít, “Hai ta chưa nay chưa hề làm chuyện xấu, nhất định trời cao sẽ ban cho chúng ta con cái đầy đàn.”

Xương Ý nghiêm mặt bào A Hành: “Muội tìm cách lựa lời với Thiếu Hạo đi, nếu sinh con gái thì không sao, chứ lỡ là con trai, đứa nhỏ sẽ trở thành Đại vương tử Cao Tân đó, chuyện này không đùa được đâu.”

Xương Phó gật đầu, “Liên quan tới vương vị, e rằng Thiếu Hạo sẽ không nhận bừa con đâu. Nếu người ta biết đứa nhỏ này không phải huyết mạch vương thất, theo luật Cao Tân, nó sẽ bị dìm chết, còn muội sẽ bị tước phong hiệu, nhốt vào lãnh cung.”

Xương Ý tiếp lời: “Không được để ai biết đứa bé này là con của Xi Vưu, mấy trăm năm nay hắn đã gánh lấy đủ điều tiếng xấu để Du Võng hưởng tiếng thơm, khiến bao người căm hận rồi.”

Bỗng chốc cả ba đều trầm ngâm buồn bã. Một năm trước đây, Thần Nông vẫn còn là bá chủ Trung Nguyên, vậy mà bây giờ đã ở bên bờ vực diệt vọng, Du Võng lìa trần, Thanh Dương qua đời, Xi Vưu sống chết chưa rõ…

A Hành gượng cười, “Về đến Cao Tân, muội sẽ bàn bạc chuyện này với Thiếu Hạo, hai người đừng lo.”

Tuy chẳng nỡ xa mẹ và Tứ ca, nhưng lưu lại Triêu Vân phong quá lâu cũng không tiện, hơn nữa bây giờ A Hành đã có mang, buộc phải quay về Cao Tân. Đương lúc thu xếp định đi, Hoàng Đế đột ngột triệu tập nàng và Xương Ý.

A Hành đoán không ra Hoàng Đế nghĩ gì, lại biết rõ Tứ ca bản tính thật thà, bèn dặn dò Xương Ý, “Nếu phụ vương vặn vẹo chuyện gì đó khó trả lời, huynh nhớ đừng nói gì cả, cứ để muội đáp thay.”

Thượng Hiên cung nằm ở phía Bắc Hiên Viên thành, được xây dựng từ khi mới lập quốc, nhằm phô bày uy thế một quốc gia nên tuy cung điện không rộng rãi, nhưng cũng hao phí khá nhiều sức người sức của. Có lẽ vì danh hiệu Hoàng Đế nên Hoàng Đế rất yêu màu vàng, mái ngói hành lang đều dát vàng lóng lánh. A Hành và Xương Ý tới nơi đúng lúc hoàng hôn, cả cung điện lấp loáng như có hào quang bao phủ, huy hoàng lộng lẫy, trang nghiêm tráng lệ khiến người ta chấn động cả tâm thần.

Buổi nghị sự trong điện vừa tan, khắp nơi vẫn bày đầy chung trà đĩa quả, những ấm vàng chén bạc dưới ánh chiều tà như tỏa ra một quầng sáng mờ mờ ấm áp.

Hoàng Đế đang ngồi chễm chệ trên ngai vàng chạm rồng cao giữa điện, toàn thân chìm giữa tầng tầng hào quang, cao lớn mà uy nghiêm.

Xương Ý và A Hành quỳ xuống dập đầu khấu kiến, Hoàng Đế liền đứng lên bảo A Hành, “Con là vương phi Cao Tân, khỏi cần hành đại lễ với ta.”

A Hành thưa: “Ở Hiên Viên, con chỉ là con gái Người, không phải vương phi Cao Tân.”

Hoàng Đế cười hài lòng, gọi bọn họ lại cùng ngồi. Xương Ý và A Hành một trái một phải chia nhau ngồi xuống sạp kê ngay dưới chân ngai vàng.

Đợi cả hai yên vị, Hoàng Đế bèn hỏi thăm sức khỏe Luy Tổ, Xương Ý lễ phép trả lời. Đột nhiên, Hoàng Đế hỏi tới Thanh Dương, “Tình trạng Thanh Dương thế nào rồi?”

A Hành vội đáp: “Đại ca bị thương rất nặng, vẫn hôn mê bất tỉnh, nếu lúc đó không có Thiếu hạo, e rằng huynh ấy đã…”

Hoàng Đế thở dài phán: “Hôm nay ta gọi các con đến là muốn bàn bạc một chuyện. Hẳn hai đứa cũng nghe ngóng được tình hình chiến sự gần đây phải không?”

Xương Ý thưa: “Con thấy tin thắng trận báo về dồn dập mà.”

“Đó chỉ là bề ngoài thôi. Tuy Thần Nông quốc đã chia năm xẻ bảy, nhưng lòng dân vẫn hướng về cố quốc, dễ đâu chịu hàng phục chúng ta. Trừ một phần nhỏ quy hàng, đại bộ phận còn lại mới là mối uy hiếp lớn nhất. Hiện giờ chúng đang sợ vỡ mật, không dám chính diện đối kháng, nhưng hễ chúng ta sơ sảy, chúng sẽ kích động đám điêu dân đó nổi dậy chống lại, đến lúc đó một đám lửa nhỏ cũng thiêu trụi được cả cánh đồng. Bởi thế chúng ta phải thực thi sách lược trên nhiều mặt, tại chiến trường hễ kẻ nào ngoan cố chống cự lập tức thẳng tay trừng trị, nên giết thì giết, nên chém thì chém, mặt khác lại phải đối đãi tốt với dân chúng Thần Nông, để tất cả dân chúng Thần Nông hiểu rằng, chỉ có quốc hiệu thay đổi, còn bọn họ vẫn có thể an cư lạc nghiệp như xưa.”

A Hành tán thưởng: “Kiêm cả ân uy, phụ vương quả là anh minh.”

Hoàng Đế nói tiếp: “Về phần các nước chư hầu của Thần Nông, mọi hứa hẹn đều chỉ là lời nói suông, cách tốt nhất là chứng minh cho họ thấy Hiên Viên tộc và Thần Nông tộc có quan hệ khăng khít, cùng hưởng họa phúc.”

Xương Ý ngỡ ngàng hỏi: “Ý phụ vương muốn Hiên Viên và Thần Nông kết thông gia ư? Phụ vương định phái vị đệ đệ nào đi cầu hôn đây?”

Hoàng Đế ưu tư thở dài: “Không chỉ là kết thông gia bình thường đâu, cuộc hôn nhân này còn phải liên quan chặt chẽ đến vương vị nữa.”

Xương Ý và A Hành nhìn nhau, đồng thanh hỏi: “Sao lại thế?”

“Muốn giành được lãnh thổ, lấy lòng trăm họ Thần Nông, chúng ta phải thể hiện thành ý của mình. Vương tử cầu hôn nhất định phải là người thừa kế vương vị tương lai, bằng không dựa vào cái gì đòi Thần Nông quy thuận? Hơn nữa, tình thế hiện giờ buộc phải làm vậy thôi. Dân chúng Thần Nông chiếm gần một nửa dân số đại hoang, Thần Nông tộc còn là Thần tộc lớn nhất, lại cả những Thần tộc đã thông gia với Thần Nông suốt bao đời nay nữa, tất cả bọn họ đều dốc sức ủng hộ cho kẻ nào kết hôn cùng vương cơ của Thần Nông. Sau khi đầu hàng, dù là vì hổ thẹn hay vì muốn giữ mạng, họ nhất định sẽ tìm trăm phương ngàn cách giúp vị vương tử đó đăng cơ, chỉ có vậy, đứa trẻ mang dòng máu Thần Nông mới có thể thừa kế vương vị ngày sau, bảo vệ lợi ích của Thần Nông tộc mãi mãi.”

A Hành khẽ hỏi: “Phụ vương bằng lòng để một đứa trẻ mang huyết mạch Thần Nông kế thừa vương vị thật ư?”

Hoàng Đế gượng cười, “Ta không bằng lòng thì biết làm sao? Vũ lực chỉ là biện pháp trấn an tạm thời, dù ta có trở thành bạo chúa chăng nữa, cũng đâu giết hết được dân chúng Thần Nông? Có khi chưa giết hết được bọn họ, Hiên Viên đã mất nước rồi cũng nên. Nếu kết hợp huyết mạch hai nhà có thể giúp Hiên Viên thuận lợi nắm giữ thiên hạ, ta đành chấp nhận vậy! Đương nhiên, đây chỉ là kế quyển nghi trước mắt thôi, Thanh Dương đâu thể chỉ có một phi tử, nếu sau này Thần Nông không còn giá trị lợi dụng thì thiên hạ này chẳng có phần cho chúng nữa đâu!”

A Hành chợt thấy vừa nể vừa sợ phụ vương, tầm mắt của ông đã vượt xa thắng lợi hiện giờ, âm thầm suy tính cho cả ngàn năm sau rồi.

Hoàng Đế đưa mắt nhìn Xương Ý rồi lại nhìn sang A Hành, “Chính vì mối thông gia này liên quan mật thiết tới vương vị, các quan trong triều đã cãi nhau ỏm tỏi mấy ngày nay, một phe cho rằng cuộc chiến lần này Di Bành lập được công lớn, nên cử Di Bành đi cầu thân, một phe lại khăng khăng phái Thanh Dương đi mới biểu lộ được thành ý của Hiên Viên tộc. Chắc hẳn các con có thể cho ý kiến thay Thanh Dương, các con nói xem, ta nên chọn Thanh Dương hay Di Bành?”

Xương Ý chẳng biết phải trả lời sao, đành nhìn sang em gái. A Hành cúi đầu trầm ngâm giây lát rồi ngẩng lên nhìn Hoàng Đế, dõng dạc, “Xin phụ vương phái Đại ca đi cầu thân.”

Hoàng Đế hỏi: “Tại sao? Con đừng ca ngợi công trạng Thanh Dương nữa, hôm nay ta nghe chán cả tai rồi.”

Gương mặt A Hành đầy vẻ bi ai, nhưng giọng điệu lại vang vang rành rọt, ẩn hiện sát khí: “Nguyên nhân Thần Nông tộc muốn liên hôn cũng giống như chúng ta thôi, chỉ mình Đại ca mới có thể thực hiện điều đó, vấn đề ở đây không chỉ là thành công hay không, mà còn liên quan tới chuyện sống chết nữa, nếu phụ vương phái Di Bành đi cầu hôn, thì con xin thưa ngay, từ nay về sau, phụ vương chắc chắn sẽ mất sự phò tá của Thanh Dương, đồng thời mất luôn con và Tứ ca!”

Hoàng Đế đanh mặt lại, trừng trừng nhìn A Hành như chất vấn: Ngươi dám uy hiếp ta ư? A Hành cũng thản nhiên nhìn lại, ánh mắt bình tĩnh mà bi ai, mặc cho Xương Ý bên cạnh căng thẳng đến nghẹt cả thở.

Trong nháy mắt, Hoàng Đế chợt phá lên cười, gật gật đầu vẻ tán thưởng, “Giỏi lắm, không hổ danh là con gái ta! Các con nhớ lấy, Hiên Viên tộc chỉ có hai bàn tay trắng, muốn có thứ gì, phải tự mình giành giật mới được!”

Xương Ý và A Hành nhất loạt quỳ xuống, “Tạ phụ vương.”

Hoàng Đế lại hỏi: “Bao lâu nữa Thanh Dương mới khỏe lại được?”

A Hành thưa: “Nếu muốn khôi phục hoàn toàn linh lực, ít ra cũng phải một hai trăm năm, nhưng đây là kết hôn chứ đâu phải giao đấu, đợi thương thế ổn định, chắc Đại ca cũng có thể tạm thời xuất quan một thời gian.”

“Vậy được, Xương Ý thay Đại ca con tới Thần Nông cầu hôn đi, ngày thành thân sẽ bàn sau.”

A Hành vội hỏi: “Chẳng hay phụ vương định chọn cô gái nào trong Thần Nông tộc?”

“Con hỏi đúng lúc lắm, ta đang muốn nghe ý kiến của con đây. Du Võng không con không cái, Viêm Đế đời trước có ba cô con gái, một con gái nuôi, hai người đã mất, hiện giờ chỉ còn lại Vân Tang và Mộc Cận, đương nhiên Trưởng vương cơ Vân Tang xứng đáng đại diện cho Thần Nông hơn cả, có điều…”

“Phụ vương e ngại tỷ ấy từng có hôn ước với Nặc Nại ư?”

“Hiên Viên chúng ta đâu có lắm lễ tiết rườm rà như Cao Tân, đừng nói là hôn ước, dù Vân Tang đã gả chồng, chỉ cần nàng ta mang huyết mạch của Viêm Đế, chúng ta cũng vẫn lấy!”

“Vậy phụ vương còn ngại gì nữa chứ?”

“Ta ngại Vân Tang thôi, nàng ta đâu phải loại người dễ lung lạc, thật ra, ta ưng Mộc Cận hơn, nhưng Mộc Cận chỉ là con nuôi, không chính danh bằng Vân Tang, nên cứ cầu hôn với Vân Tang đi!”

A Hành lẩm bẩm, “Lỡ… lỡ như… Vân Tang không chịu thì sao?”

Hoàng Đế cười nhạt, “Trong quá khứ Thần Nông có hùng mạnh đến mấy thì hiện giờ cũng đã đại bại rồi, họ khiếp sợ cảnh phơi thây đầy nội, máu chảy thành sông, chả cuống quýt kết thông gia để đổi lấy hòa bình ấy chứ!”

A Hành chẳng dám nhiều lời, đành cung kính đáp: “Con hiểu rồi.”

Xương Ý và A Hành hành lễ thoái lui rồi cùng ngự xe mây về Hiên Viên sơn. Ngồi trong xe, Xương Ý hỏi nhỏ: “Làm vậy có ổn không? Chúng ta chưa kịp bàn bạc gì với Thiếu Hạo cả.”

“Nếu Đại ca không lấy thì Di Bành lấy, đứng trước lựa chọn sinh tử này, Thiếu Hạo còn lý trí quả quyết hơn chúng ta nhiều, nhất định y sẽ tán đồng thôi. Huống chi…” A Hành nắm lấy tay Xương Ý, nghiêm trang nói, “Thiếu Hạo chính là Thanh Dương, là Đại ca của chúng mình.”

Xương Ý gật gật đầu, “Ta nhớ mà.”

Về đến chân núi Hiên Viên, hai người vừa khéo gặp ngay Di Bành đang định lên núi. Luận về vai vế, Di Bành phải nhường đường cho Xương Ý, nhưng luận về phẩm tước, Xương Ý lại phải nhường đường cho Di Bành. Đám đánh xe bên nào cũng tranh đi trước, chẳng ai chịu ai, cãi nhau ầm ĩ cả lên.

Xương Ý thấy việc chẳng đáng gì bèn vén rèm xe, toan bảo thị vệ nhường đường nhưng A Hành đã giữ tay y lại, lắc đầu. Vấn đề ở đây không phải là khí thế, mà là thái độ, tuy chuyện này rất nhỏ nhặt, nhưng nếu nhường nhịn sẽ khiến chúng thị vệ nản lòng, họ chẳng nề phạm thượng bảo vệ chủ nhân, vậy mà chủ nhân lại không bảo vệ lấy uy phong của mình, thử hỏi ngày sau họ còn nhiều chuyện làm chi nữa?

Thấy thị vệ hai bên chuẩn bị động thủ, Di Bành nhảy xuống xe quát: “Các ngươi tưởng đây là đâu hả?” Hắn vừa nạt đám thị vệ, vừa bước lại chỗ bọn Xương Ý.

Xương Ý chẳng muốn trò chuyện với kẻ hại chết Đại ca nên chỉ đáp qua loa mấy câu rồi giả bộ ngắm cảnh, lờ hắn đi. Trái lại, A Hành vẫn cười nói vui vẻ với Di Bành, còn chúc mừng hắn được thăng làm Đại tướng quân.

Di Bành đưa mắt nhìn quanh, không thấy cung nữ thị vệ nào gần đó, bèn hạ giọng nói nhỏ: “Gần đây ta bắt được khá nhiều tù binh Thần Nông, để giữ mạng, lời gì chúng cũng phun ra hết, mong vương cơ thận trọng.”

“Chúng nói chuyện gì?”

“Chúng nói vương phi có tư tình với Xi Vưu! Chúng kể có đầu có đuôi, nghe như thật ấy, còn nói trước trận Phản Tuyền, Xi Vưu lén lút hẹn hò với vương phi, ta sợ phụ vương nổi giận nên chẳng dám tấu trình gì cả. Có điều, Cao Tân lễ tiết nghiêm ngặt, nếu có chuyện này chuyển đến Cao Tân, dù là lời đồn nhảm, cũng sẽ gây ra một trận xôn xao, trời long đất lở.”

Theo phản xạ, A Hành chợt đưa tay lên bụng, nhưng miệng vẫn nở nụ cười, “Lại còn có chuyện đó nữa ư? Xi Vưu đánh Đại ca trọng thương, muội hận hắn còn không hết nữa là.”

Di Bành cười, “Thần Nông và Hiên Viên đều đang lùng sục hắn khắp nơi, nhưng suốt cả năm nay vẫn bặt vô âm tín, có lẽ Xi Vưu bỏ mạng thật rồi, nói không chừng xương cốt cũng chẳng còn toàn vẹn, xem như vương phi đã trả được thù.”

A Hành thấy lòng đau thắt, dạ quặn lên, chưa kịp phản ứng, nàng đã ồng ộc nôn hết vào áo Di Bành.

Di Bành cuống quýt lùi ra xa, đám cung nữ theo hầu cũng tái mặt, kẻ bưng nước, người cầm khăn, vội vã xúm lại.

Di Bành chỉ ghê tởm cau mày, mặc đám cung nhân rối rít vậy quanh.

Thấy A Hành vẫn nhoài ra song cửa, không ngừng nôn khan, Xương Ý bèn lấy ô mai đã chuẩn bị sẵn đưa cho nàng ngậm để khỏi cồn ruột.

Nôn hết một chập, A Hành xây xẩm mặt mày, nói chẳng ra hơi.

Thấy vậy, Di Bành bèn bảo Xương Ý: “Vương phi đang khó ở, Tứ ca đi trước đi.”

Đợi đoàn xe Xương Ý đi xa, Di Bành mới tiếp tục lên đường. Hắn cứ thấy trong lòng lấn cấn, như thể mình đã bỏ sót chuyện gì đó rất quan trọng, nhưng rốt cuộc là chuyện gì thì nghĩ mãi không ra.

Vừa về tới Chỉ Nguyệt điện, một cánh Lam Thước liền đậu ngay lên vai Di Bành, thả thẻ ngọc vào tay hắn, Di Bành mỉm cười, vội lật lên đọc.

Hoàng Đế đã quyết định chọn Thanh Dương để kết nhân duyên với Thần Nông tộc!

Di Bành chợt tắt hẳn nụ cười, bóp thẻ ngọc nát vụn ra như cám, Lam Thước cũng phát hoảng vì sát khí của hắn, ré lên một tiếng rồi bay vụt vào rừng.

Đồng Ngư thị ngồi thẫn thờ giữa ngôi đình bát giác trên đỉnh núi, nét mặt nhợt nhạt chẳng chút sinh khí, hệt như một pho tượng có máu có thịt. Từ sau khi Hiên Viên Huy chết đi, bà ta cứ tỉnh táo được vài ngày lại ngây dại mất mấy hôm, lúc tỉnh táo thì chăm chăm tìm cách hãm hại Luy Tổ, khi ngây dại lại đờ đẫn lên đỉnh núi ngồi đợi Hiên Viên Huy trở về, khuyên nhủ sao cũng vô ích.

Thấy Di Bánh tới tìm Đồng Ngư thị, vú già liền bước ra hành lễ rồi bẩm báo: “Có một thị nữ khi xưa từng hầu hạ nương nương tới xin gặp. Vì có tư tình, theo luật ả phải bị đánh roi đến chết, nhưng nương nương khai ân, chẳng những không trách phạt mà còn sắp xếp để ả có thể suôn sẻ gả chồng. Gần đây, ả theo chồng quay về Hiên Viên thành, nghe nói nương nương khó ở, nhớ lại Người vẫn thích mấy món dưa ả muối, nên kiếm cách dâng lên. Nô tỳ nhận lấy rau dưa, bảo ả về nhưng ả vẫn ghi lòng tạc dạ ơn nương nương năm đó, muốn gặp mặt nương nương để đập đầu bái tạ, đã chờ nửa ngày nay rồi.”

Di Bành ôn hòa hạ lệnh, “Hiếm được người có lòng như thế, triệu ả vào gặp nương nương đi.”

Di Bành tế nhị tránh sang một bên, chẳng bao lâu, một phụ nữ bụng chửa vượt mặt bưng một liễn dưa bước vào, thoạt trông thấy Đồng Ngư thị, ả liền quỳ sụp xuống, nhưng Đồng Ngư thị chẳng hề nhận ra, chỉ trân trân dán mắt vào bụng ả.

Nhìn vẻ đờ đẫn của Đồng Ngư thị, ả hết sức đau lòng, nhưng biết cung đình quy củ nghiêm ngặt nên chẳng dám hé răng nửa lời, chỉ trao liễn dưa cho thị nữ rồi dập đầu lui ra.

Nào ngờ ở vừa đứng lên, Đồng Ngư thị đột ngột cất tiếng: “Ngươi nghén lắm hả?” Chẳng đợi ả trả lời, bà ta lẩm bẩm nói tiếp: “Hồi đó ta nghén rất khủng khiếp, hơi tí là nôn ọe. Nhà họ Đỗ ngoài thành Bắc bán ô mai ngon lắm, ngậm một quả là đỡ ngay, ngươi cũng mua chút ít đi. Nhớ lấy, dù nôn cũng gắng ăn uống, không được bỏ cơm, đừng để con nó đói.”

Người đàn bà kia ngẩn ra, gật đầu, vú già bên cạnh liền giơ tay ra hiệu cho ả mau lui.

Di Bành đứng xa xa lắng tai nghe ngóng, chợt sững người, đoạn phá lên cười khoái trá. A Hành có thai rồi ư? Đứa nhỏ này chắc chẳng phải của Thiếu Hạo, xem chừng cơ hội đẩy cả nhà Luy Tổ lên đoạn đầu đài sắp đến rồi đây!

Hắn liền quay sang dặn kẻ hầu: “Đưa người đàn bà đó ra khỏi cung, nhớ ban thưởng hậu hĩnh vào.”

Nói rồi hắn cười đắc ý, cầm lấy áo choàng từ tay thị nữ, rảo bước tiến vào đình, khoác áo lên vai Đồng Ngư thị, “Mẹ, chúng ta vào nhà đi.”

“Sao Huy nhi mãi vẫn chưa về? Sao lâu nay ta chẳng được gặp nó gì cả.”

“Huynh ấy bận theo phụ vương xử lý công vụ, mấy ngày nay chưa về được đâu, chẳng phải mẹ vẫn dạy chúng con phải ra sức nỗ lực đó ư? Tam ca có mẫn cán mới được lòng phụ vương chứ!”

“Đúng đúng, các con phải gắng lên, nhất định không được để con trai của ả tiện nhân trên Triêu Vân phong kia qua mặt.” Đồng Ngư thị cười hài lòng.

Di Bành vừa khép áo choàng lại cho mẹ, vừa tươi cười nói nhỏ: “Vừa nãy, mẹ đã chỉ cho con một con đường rồi, bọn chúng không đắc ý được lâu nữa đâu.”

A Hành và Xương Phó theo Luy Tổ đi dạo trong rừng dâu, chợt thấy Chu Du chốc chốc lại đảo qua, hỏi có chuyện gì ả nhất mực không nói, chỉ lắc đầu quầy quậy: “Không có gì, không có gì cả.”

Lời vừa ra khỏi miệng chẳng bao lâu, chợt thấy bóng áo vàng của ả thấp thoáng giữa rừng cây, Luy Tổ không khỏi phì cười, quay sang bảo A Hành: “Ta thấy con nha đầu đó cứ len lén liếc con, chắc có chuyện gì muốn nói, con qua xem xem!”

A Hành cười vâng dạ, chạy tới bên Chu Du: “Ngươi tìm ta có chuyện gì thế?”

Chu Du đảo mắt nhìn quanh, thấy không có ai mới lên tiếng: “Đại điện hạ có những thuộc hạ chuyên phụ trách nghe ngóng tin tức, vương cơ có biết không?”

“Đại ca chẳng nói gì với ta cả, nhưng khỏi nói cũng biết, đương nhiên là có rồi.”

“Trước khi xuất chinh lần này, điện hạ dặn dò nô tỳ khi ngài vắng mặt, nếu có sự gì, nô tỳ phải báo cáo vương cơ.”

A Hành nghe lòng đau thắt lại, lặng thinh giây lát rồi hỏi: “Có chuyện gì khác thường ư?”

Chu Du gật đầu, “Lạ lắm, Di Bành vẫn không ngừng phái người đi điều tra chuyện của vương cơ và Xi Vưu, còn bỏ rất nhiều tiền mời một vị vu sư tinh thông y thuật từ Thần Nông tới, nghe nói người này rất giỏi chuẩn đoán thai phụ.”

A Hành tái mét mặt, mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa.

Chu Du mau miệng hỏi ngay: “Vương cơ làm sao thế?”

A Hành ráng định thần lại, căn dặn Chu Du: “Chuyện này nhất định không được cho ai biết đâu đấy.”

“Nô tỳ rõ rồi.”

A Hành trầm ngâm nghĩ ngợi, xem tình hình này, chắc hẳn Di Bành đã nghi ngờ nàng có mang với Xi Vưu, nhưng hắn định lợi dụng chuyện này thế nào để hãm hại cả nhà nàng, mới là vấn đề đáng lo ngại.

“Chu Du, người giúp ta tìm mấy vị thảo dược được không?”

Chu Du cười đáp: “Chuyện khác nô tỳ không biết, chứ tìm thảo dược thì dễ như trở bàn tay, dù vương cơ muốn kỳ hoa dị thảo nào, nô tỳ cũng tìm được hết.”

A Hành liền ghé tai Chu Du kể tên mấy vị thảo dược cần tìm, càng nghe, vẻ mặt ả càng kinh ngạc, nhưng từ lâu đi theo Thanh Dương, ả sớm đã tập được thói quen nói ít làm nhiều, chỉ yên lặng vâng lời.

Căn dặn Chu Du xong, A Hành sai A Tệ và Liệt Dương cùng ả đi tìm thảo dược.

Đợi bọn họ đi khuất, vẻ trấn tĩnh trên mặt A Hành cũng hoàn toàn tiêu tan, chỉ còn lại sầu thương vô hạn.

Nàng thẫn thờ rút Trụ Nhan hoa trên tóc xuống, hoa vẫn tươi thắm như xưa mà người tặng hoa giờ nơi đâu?

Suốt một năm trời, Thần Nông, Hiên Viên và Cao Tân đều sai người ráo riết lùng sục khắp nơi, nhưng Xi Vưu vẫn bóng chim tăm cá. Người người đều cho rằng hắn đã chết, kể cả Thiếu Hạo cũng vậy, chỉ mình nàng một mực không tin, dù tất cả mọi nơi có thể tìm, Liệt Dương và A Tệ đã tìm hết, mà Xi Vưu vẫn biệt tăm.

Có lẽ nàng khăng khăng giữ lấy chấp niệm ấy, vì chẳng dám nhìn thẳng vào sự thật đó thôi.

Nàng giơ Trụ Nhan hoa lên khẽ hỏi: “Chàng đang ở đâu? Chúng ta sắp có con rồi đó, chàng có vui không? Ta lo cho chàng lắm.”

Cánh hoa run run trước gió, lặng câm.

Hai hàng nước mắt lăn dài trên má A Hành, nhỏ xuống Trụ Nhan hoa, nhuộm thêm sắc thắm cho đóa hoa kiều diễm.

Hoàng Đế chính thức công bố với triều thần, cử Xương Ý tới Thần Nông tộc thay Thanh Dương cầu hôn.

Xương Ý tưởng Di Bành sẽ phản đối kịch liệt, nào ngờ hắn lại tích cực phối hợp, cùng bàn bạc hoạch định việc cầu hôn, còn chủ động đứng ra xin đi cùng hỗ trợ Xương Ý.

Hoàng Đế xét thấy tình hình hiện giờ rất phức tạp, Xương Ý lại không giỏi ứng biến, phải phái thêm người cơ trí quyền mưu theo hỗ trợ là đương nhiên, nhưng Di Bành thì không ổn, thành ý của hắn chẳng đáng tin chút nào.

Đương lúc phân vân do dự, Di Bành lại tâu: “phụ vương, nhi thần thấy hay nhất là cử tiểu muội đi cùng, muội ấy thân phận cao quý, Thần Nông tộc lại coi trọng địa vị xuất thân, ắt trọng vọng muội ấy hơn bọn con nhiều, như vậy càng tỏ rõ thành ý.”

Hoàng Đế nghĩ bụng, A Hành quả là lựa chọn hay, tuy là vương cơ của HiênViên tộc, nhưng cũng là vương phi Cao Tân, thân phận trung lập, những chuyện Hiên Viên không tiện làm đã có A Hành ra mặt, hơn nữa A Hành đi cùng, ắt Di Bành chẳng dám giở trò.

Xương Ý lập tức phản đối: “Tiểu muội nán lại Triêu Vân phong là để chăm sóc mẫu hậu, mấy hôm nay muội ấy đã thu dọn hành trang, ngày một ngày hai sẽ quay về Cao Tân, sao theo nhi thần đến Thần Nông được.” Thấy Hoàng Đế tỏ vẻ không đồng tình, Xương Ý chẳng kịp suy nghĩ, vội bồi thêm: “Dạo này tiểu muội hơi khó ở, không tiện bôn ba vất vả.”

Di Bành khẩn trương đến nỗi suýt nữa thì giậm chân, cao giọng nói ngay: “Tiểu muội không được khỏe ư? Sao không mời thầy thuốc? Nếu tin này truyền đến Cao Tân, người ta chẳng chê Tứ ca bỏ mặc tiểu muội, mà sẽ cười Hiên Viên chúng ta thất lễ cho coi. Phụ vương, xin người gọi thầy thuốc tới chẩn bệnh cho tiểu muội đi!”

Hoàng Đế gật đầu khen phải, vừa định hạ chỉ, đột nhiên từ ngoài cung điện vang lên tiếng A Hành: “Đa tạ Cửu ca quan tâm, có điều chẳng cần phiền tới thầy thuốc, mấy hôm trước muội hơi khó ở, nhưng hôm nay đã khá rồi.” A Hành thong dong bước vào, hành lễ với Hoàng Đế, “Phụ vương, để nhi thần theo Tứ ca đến Thần Nông, con có chút giao tình với Vân Tang, nếu xảy ra chuyện gì cũng dễ bàn bạc hơn.”

Hoàng Đế chuẩn y lời nàng, lệnh cho ba người mau mau thu xếp hành trang, gấp rút lên đường.

Trước khi ba người lui ra, Hoàng Đế còn lườm Di Bành, cảnh cáo: “Chuyện này liên quan đến vận mệnh Hiên Viên, mọi việc đều phải nghe theo sắp xếp của ta, chỉ được thành công, không được phép thất bại, nếu có gì sơ sảy, ta sẽ trị tội cả con và Xương Ý đấy.”

Di Bành cao giọng vâng dạ.

Về tới Triêu Vân phong, Xương Ý quay sang trách A Hành: “Muội biết mình đang mang thai, sao còn đòi đi Thần Nông?”

Dù cho Xương Ý biết Di Bành phát hiện ra việc nàng có thai, đang lăm le thăm dò từng bước thì cũng chẳng giúp ích được gì, ngược lại chỉ chuốc thêm lo lắng cho Tứ ca nên A Hành giấu tiệt chuyện đó, “Muội đang mang thai chứ đâu có sinh bệnh. Chuyện này nhìn bề ngoài là thông gia, nhưng thực ra là tranh giành vương vị, Di Bành đời nào chịu giúp đỡ chúng ta, chi bằng muội đi cùng huynh, có gì cũng tiện chăm sóc lẫn nhau.”

“Ta hiểu, tiếc rằng ta chẳng được giỏi giang như Đại ca, khiến muội phải nhọc lòng lo lắng.”

A Hành nũng nịu ngả đầu vào vai anh trai, “Tứ ca ngốc ạ, huynh là chỗ dựa tinh thần của muội kia mà.”

Xương Ý khẽ mỉm cười, vòng tay ôm lấy em gái, tựa đầu vào đầu nàng.

Sáng hôm sau, Xương Ý, A Hành và Di Bành cùng khởi hành đi Thần Nông sơn. Đồng thời, Hiên Viên Hưu và Ứng Long phụng mệnh Hoàng Đế, dẫn đại quân Hiên Viên tiếp tục tiến về phía Đông.

Sau khi Du Võng từ trần, các chư hầu vốn ngỡ rằng mình có thể tự lập làm vương lại phải đối mặt với Hoàng Đế đánh đâu thắng đó, đâm ra khiếp sợ, thấy những kẻ đầu hàng Hiên Viên đều được hậu đãi, thì khó tránh xiêu lòng muốn quy hàng. Dẫu sao trước sự uy hiếp của tử vong, cũng chẳng mấy ai đủ can đảm xem nhẹ mạng sống, coi chết như về cội.

Nghĩ sao làm vậy, mấy vị quốc chủ đức cao vọng trọng liền liên hệ với nhau, tập hợp các nước chư hầu về Thần Nông sơn, cùng bàn bạc phương cách đối phó với Hiên Viên tộc, đưa ra ý kiến nên chiến đấu hay nghị hòa.

Cộng công đã thuyết phục các chư hầu đến bã cả bọt mép rằng Thần Nông hiện giờ chia năm xẻ bảy, thân ai nấy giữ nên mới núng thế trước Hiên Viên, chỉ cần mọi người đoàn kết một lòng, rất có khả năng sẽ đánh bại được quân thù.

Ai nấy đồng loạt gật gù, tán thưởng Cộng Công phân tích rất có lý.

Cộng Công mừng rỡ đề nghị các chư hầu họp nhau lại cử ra một vị lãnh tụ rồi chích máu ăn thề, nguyện nghe theo lệnh của người đó, có vậy mới đẩy lùi được Hoàng Đế.

Nghe vậy, chư hầu các nước đều nín lặng làm thing, thậm chí có kẻ còn buông lời châm chọc Cộng Công, “Ra rả suốt nửa ngày đòi toàn tâm toàn ý vì Thần Nông, hóa ra là ngài muốn xưng vương.” Một người vừa lên tiếng, lập tức cả đám hùa theo phụ họa, lôi cả lời nhận xét của Viêm Đế đời trước về Cộng Công “chỉ là tướng mạnh, chẳng phải soái tài” ra dẫn chứng, chỉ sợ có kẻ tiến cử Cộng Công.

Cộng Công vốn mạnh mẽ ngang tàng, vậy mà nghe chúng nói cũng uất trào máu mắt, cuối cùng, hắn cũng hiểu vì sao Chúc Dung không tới tham gia hội nghị hôm nay, xem ra y đã biết tỏng bụng dạ đám người này từ lâu.

Càng nghe càng thấy rát tai, Cộng Công phẫn uất lập ngay lời thề trước mặt mọi người: “Nếu Cộng Công ta có ý xưng vương đoạt quyền, sẽ bị sét đánh tan xác, không được chết yên lành! Xin các bậc liệt tổ liệt tông của Thần Nông làm chứng, thần Cộng Công đã dốc hết sức mình, nếu một mai nước mất nhà tan, Cộng Công này chỉ còn cách lấy thân báo quốc mà thôi!” Nói rồi hắn giận dữ giũ áo đi thẳng.

Bàng hoàng trước khí thế của Cộng Công, các chư hầu cũng lặng phắc hồi lâu, mãi sau mới có người lên tiếng: “Đại quân Hiên Viên sắp kéo đến Thần Nông sơn rồi, chúng ta phải mau chóng bàn bạc tìm cách đối phó đi chứ!”

Tức thời mọi người lại rào lên tranh luận âm ĩ, nhưng ai nấy chỉ biết chăm chăm lo cho an nguy lợi ích của riêng mình, rất sợ bị kẻ khác chiếm phần hơn, để thiệt cho mình, bàn cãi chán chê chẳng đâu vào đâu cả.

Vân tang lặng thinh ngồi nghe bọn họ cãi cọ, đồng thời quan sát thật kỹ vẻ mặt từng người, trong khi Mộc Cận ngồi bên đã giận xanh mặt, mấy lần định xông ra mắng mỏ, đều bị Vân Tang ngăn lại. Hậu Thổ đanh mặt đứng cạnh hai người, trông như thể hộ vệ.

Đột nhiên, một cung nhân cuống quýt chạy vào bẩm báo: “Đại quân Hiên Viên chỉ còn cách Trạch Châu thành sáu mươi dặm nữa thôi!”

Trạch Châu là hàng phòng ngự cuối cùng của Chỉ Ấp, nếu Trạch Châu bị phá, Hiên Viên có thể đánh thẳng vào Chỉ Ấp, cũng có nghĩa là Thần Nông sẽ bị xóa tên trên bản đồ đại hoang.

Kẻ tiểu nhân đê tiện đến đâu cũng khó tránh đau lòng vì mất nước, não ruột mà thương thân, tất cả chư hầu lập tức im phăng phắc.

Giữa bầu không khí trầm lặng đầy đau thương và hoảng loạn, thị vệ bỗng chốc vào thông báo có Hiên Viên Xương Ý cầu kiến.

Cả hội nghị đưa mắt nhìn nhau, vẻ căng thẳng và sợ hãi hằn lên gương mặt, ai nấy đều lúng túng như gà mắc tóc, chẳng biết phải làm sao, đúng lúc này, Vân Tang ung dung hạ lệnh: “Mời vào!”

Xương Ý đi trước, Di Bành và A Hành nối gót tiến vào. Trong các vương tử Hiên Viên, Xương Ý có phong độ xuất chúng hơn cả, y nói năng khiêm tốn, cử chỉ hòa nhã, không hề có vẻ ngạo nghễ của kẻ thắng cuộc, lại am hiểu lễ tiết Thần Nông nên chẳng mấy chốc đã chiếm được thiện cảm của mọi người ở đó.

Hậu Thổ dò hỏi: “Vương tử lặn lội đường xa, hẳn không chỉ tới để hàn huyên, chẳng hay ngài đến có chuyện gì vậy?”

Xương Ý đưa mắt nhìn khắp lượt chư hầu xung quanh, thong thả đáp: “Ta phụng mệnh phụ vương, thay Đại ca Hiên Viên Thanh Dương tới cầu hôn cùng Thần Nông tộc, phụ vương ta nói, một giọt máu đào hơn ao nước lã, chỉ có gắn kết bằng huyết mạch mới hóa giải được chiến sự, giúp thiên hạ thái bình.”

Xương Ý vừa dứt lời, các lộ chư hầu lập tức chụm đầu ghé tai lại bàn bạc, cả đại điện toàn tiếng xì xầm to nhỏ. Những kẻ đã ngả về phe Hoàng Đế liền chớp thời cơ thể hiện, ra vẻ thấu hiểu đại nghĩa, phân tích thiệt hơn, nào là Thanh Dương tương lai đăng cơ Hoàng Đế, nếu phong một nữ tử Thần Nông làm vương hậu, cũng có nghĩa là về sau một vị vương tử mang huyết mạch Thần Nông sẽ trở thành bá chủ thiên hạ này. Giữa tiếng thì thào bàn bạc, vài kẻ đã xiêu xiêu nhưng vẫn e ngại đầu hàng, sợ có lỗi với liệt tổ liệt tông Thần Nông tộc cũng bắt đầu vắt óc tìm một lý do đàng hoàng để bao biện chi hành vi của mình.

Xương Ý tươi cười đợi mọi người bàn bạc chán chê, mới lên tiếng hỏi: “Không biết ý các vị thế nào?”

Quốc vương Quân Tử quốc lớn tuổi nhất ướm hỏi: “Chẳng rõ Thanh Dương điện hạ định cầu hôn vị cô nương nào?”

Thoạt nghe thấy câu này, tất cả các chư hầu mới rồi còn chụm đầu kề tai thảo luận, lập tức nghĩ ngay đến lợi ích cá nhân, vội vã tách hẳn ra, giữ khoảng cách, cảnh giác nhìn nhau.

Xương Ý đáp: “Phụ vương ta nói, Thanh Dương là Đại vương tử của Hiên Viên, nổi danh thiên hạ, chính phi của huynh ấy đương nhiên cũng phải có thân phận tôn quý, tài đức vẹn toàn, bởi vậy ta thay mặt huynh trưởng, xin được cầu hôn với Trưởng vương cơ.”

Ánh mắt mọi người liền đổ dồn về phía Vân Tang, lần đầu tiên họ nhất loạt đồng ý nhìn nhau, không ai phản đối cả, nào ngở Hậu Thổ đột ngột đứng phắt dậy, cao giọng: “Nhất định không được!”

Cả đại điện tức thì rào lên như ong vỡ tổ, tranh cãi náo loạn.

Hậu Thổ đưa mắt khinh miệt nhìn khắp lượt chư hầu, lắc đầu cười nhạt, “Đúng là một đám ô hợp thiển cận!” Đoạn gã quay sang Vân Tang và Mộc Cận: “Để thần hộ tống hai vị vương cơ về Tiểu Nguyệt đỉnh.” Mộc Cận lập tức đỡ lấy Vân Tang bước ra ngoài.

Thấy bọn người kia định ngăn hai nàng lại, Hậu Thổ chậm rãi giơ tay lên, một luồng xoáy cát dữ dội như mãnh thú thét gào đòi mạng cuồn cuộn giữa lòng bàn tay, gả lạnh băng cất tiếng: “Các người muốn cản đường ta?”

Hậu Thổ dáng vẻ văn nhã, dung mạo tuấn tú, xưa nay vẫn bị người ta cười cợt chế nhạo, nhưng mấy trăm năm trước, gã suýt nữa đã lấy mạng Chúc Dung, từ đó trở đi, mọi người mới giật mình nhận ra đằng sau vẻ ngoài thanh mảnh yếu ớt ấy là một kẻ tàn nhẫn hiểm độc hơn rắn rết.

Gã lừ mắt nhìn khắp đại điện, lập tức các chư hầu oai trấn một phương đều nín thin thít, sợ sệt lùi lại nhường đường.

Hậu Thổ hộ tống Vân Tang và Mộc Cận băng qua đám đông bước ra khỏi điện.

Bấy giờ, mọi người trong đại điện mới lấm lét nhìn nhau, bọn họ tính toán đủ đường, lường trước mọi chuyện, nào ngờ Vân Tang lại không đồng ý.

Hồi lâu, quốc vương Chu Nhiêu quốc đành lựa lời: “Vương tử lặn lội đường xa, mời đi nghỉ ngơi cho khỏe, chuyện này quá đỗi bất ngờ nên vương cơ thẹn thùng đó thôi, chúng tôi nhất định sẽ thuyết phục Trưởng vương cơ.”

Xương Ý thầm thở dài trong dạ, dẫn Di Bành và A Hành rời khỏi đó.

Vì là khách nên họ được sắp xếp ngụ tại một đỉnh núi ngoài rìa Thần Nông sơn chứ không được vào trung tâm.

Giữa đêm khuya, A Hành một thân một mình leo lên chóp núi, trông vời Tiểu Nguyệt đỉnh thấp thoáng đằng xa, A Tệ nằm rạp bên cạnh nàng, cũng ngơ ngẩn trông về Tiểu Nguyệt đỉnh. Liệt Dương bản tính lạnh lùng, thấy hai kẻ kia cứ ngây ra, thật là vô vị, bèn biến trở lại nguyên hình, chiếm lấy tổ của hai con quạ, đuổi hết chúng đi rồi ngủ khò.

Một lúc sau, Vân Tang cưỡi Cửu Sắc lộc từ rừng sâu chạy đến, thấy Liệt Dương đang ngủ khò, còn A Tệ hiền hòa nằm dài dưới đất. Giác quan của muôn thú hết sức nhạy bén, Cửu Sắc lộc đánh hơi thấy A Tệ có hơi hướm khác thường, cứ sợ hãi quanh quẩn mãi, không dám tiến lại gần A Hành.

A Hành nhận ra ngay, liền hạ giọng bảo A Tệ: “Mày ra chỗ khác chơi đi.” Dứt lời, nàng chẳng buồn quay lại, vung tay ném vèo một viên sỏi vào cái tổ quạ lủng lẳng trên cành, phá tan giấc ngủ của Liệt Dương, nó trừng mắt lườm nàng rồi hậm hực bay vút khỏi tổ.

Bấy giờ Cửu Sắc lộc mới dám tiến lại. Vân Tang từ trên mình nó nhảy xuống, nghi hoặc nói, “Lạ thật, trước đây tọa kỵ của ta đâu có sợ A Tệ, sao giờ lại sợ đến nỗi không dám lại gần thế nhỉ?”

A Hành chẳng buồn giấu giếm Vân Tang, lập tức đi thẳng vào vấn đề, “Tỷ tỷ có tin gì về Xi Vưu không?”

Vân Tang buồn bã lắc đầu, ngồi xuống cạnh A Hành, “Mộc Cận đã phái người tìm khắp đại hoang suốt một năm nay mà hắn vẫn biệt tăm. Ta cũng không tin rằng hắn đã chết, nhưng với tính tình của hắn, chỉ cần còn một hơi thở, nhất định sẽ không khoanh tay ngồi nhìn Thần Nông ra nông nỗi này đâu.”

A Hành đau xót đặt tay lên bụng, nước mắt giàn giụa, ngước nhìn Tiểu Nguyệt đỉnh ẩn hiện giữa mây mù.

Chính tại nơi đó, nàng đã mở lòng thừa nhận tình cảm với Xi Vưu, cùng hắn hẹn thề hàng năm gặp gỡ dưới cội anh đào. Lại sắp đến một mùa hoa đào nở, lẽ nào năm nay chàng định thất hẹn nữa sao? Chàng từng thề với ta sẽ không có lần thứ ba kia mà!

Vân Tang khẽ an ủi: “Muội muốn khóc thì cứ khóc đi, có ta ở đây!”

A Hành lắc đầu: “Xi Vưu không chết đâu mà! Hắn đã hứa với muội, tính mạng hắn chỉ thuộc về một mình muội mà thôi!”

Việc đến nước này mà A Hành vẫn giữ vững lòng tin, chẳng hề nao núng, không khỏi khiến Vân Tang cảm phục. A Hành gắng lấy lại tinh thần, hỏi sang chuyện khác: “Phụ vương muội đề nghĩ kết thông gia, tỷ thấy thế nào? Nếu tỷ không bằng lòng, chúng ta có thể tìm cách tháo gỡ.”

Vân Tang mở miệng toan nói, nhưng bây giờ đã chẳng còn như lúc trước, tuy mọi chuyện không liên hoan tới A Hành, nhưng dù sao nàng cũng là vương cơ Hiên Viên, giữa bọn họ là trùng trùng thù nhà nợ nước, có rất nhiều điều không thể nói ra, đành mỉm cười đáp: “Chính phi của Thanh Dương rất có thể sẽ trở thành mẫu nghi thiên hạ, trên đời này có mấy ai nỡ cự tuyệt lời cầu hôn của y?”

“Vậy tỷ và Nặc Nại…”

Vân Tang đanh mặt lại: “Nặc Nại mà ta quen biết đã chết từ lâu rồi! Nặc Nại bây giờ chỉ còn là cái bị thịt say sưa tối ngày, táng tận lương tâm thôi!”

A Hành hoảng sợ im bặt, nàng cũng biết Nặc Nại đắm chìm trong rượu, còn liên tục sử dụng ngọc hồng thảo, thứ thảo dược làm mê mẩn tâm trí, lâu ngày thành nghiện, giờ đã trở thành phế nhân. Nàng từng nài nỉ Thiếu Hạo đi khuyên nhủ y, Thiếu Hạo liền đưa nàng cùng tới gặp Nặc Nại, nào ngờ y cao giọng mắng chửi cả Thiếu Hạo rồi quỳ sụp xuống trước mặt nàng, khóc lóc kêu gào xin thuốc để thỏa cơn nghiền.

Thấy A Hành nín thít, Vân Tang dịu nét mặt, trở lại chủ đề cũ: “Hai nhà kết thông gia là chuyện trọng đại, muội muội ngoan, muội giúp ta tranh thủ chút thời gian để cân nhắc được không?”

“Được thôi.”

Vừa nói đến đó, Hậu Thổ đã cưỡi tọa kỵ Hóa Xà tìm đến, trông thấy Vân Tang, gã thở phào nhẹ nhõm: “Vương cơ đột nhiên biến mất làm tôi và Mộc Cận lo quá.”

“Ta không vui nên mới tìm muội muội chuyện phiếm giải sầu thôi mà.”

Hậu Thổ quay sang hành lễ với A Hành, ánh mắt vẫn chân thành tha thiết, nhưng thái độ đã khách sáo hơn nhiều. Trong lòng gã, nàng vẫn là Bạt tỷ tỷ, nhưng nàng cũng chính là vương cơ của Hiên Viên tộc, những kẻ đem quân xâm lược Thần Nông, giết chết Du Võng. Gã chẳng biết đối diện với nàng ra sao, đánh lấy thái độ khách sáo xa lạ để che giấu trái tim mình.

Biểu hiện của Hậu Thổ khiến A Hành thấy lòng chùng hẳn xuống, gượng cười đáp: “Tướng quân, mời.” Cũng khách khí, cũng xa lạ như thế.

Vân Tang liền gọi Cửu Sắc lộc lại, “Chúng ta đi thôi.”

A Hành vẫn quyến luyến Vân Tang, nhưng không sao mở miệng giữ nàng được. Cái chết của Du Võng đã chắn ngang giữa hai người, khiến A Hành chẳng còn mặt mũi nào đối diện với Vân Tang nữa.

Thấy Thần Nông tộc lần lữa trước đề nghị kết thông gia của Hoàng Đế, A Hành bèn hẹn gặp riêng Vân Tang, nhưng chẳng thu được kết quả gì, xem ra nội bộ Thần Nông cũng đang xáo trộn. Xương Ý liền tấu trình lên Hoàng Đế xin thư thả cho một thời gian, có điều chẳng rõ Di Bành đã ton hót những gì khiến Hoàng Đế bực bội, viết thư cho A Hành nếu không có kết quả thì để Di Bành toàn quyền xử lý chuyện này.

Để bức Trạch Châu đầu hàng, Hoàng Đế đã cho cắt đứt nguồn nước, nhưng thành chủ Trạch Châu vẫn kiên quyết cố thủ bên trong, chẳng buồn ra nghênh chiến, chỉ chuyên giở ngón đánh du kích, bắn lén và ám sát khiến binh sĩ Hiên Viên ăn không ngon, ngủ không yên. Hoàng Đế nổi giận truyền lệnh, nếu Trạch Châu còn không đầu hàng thì lập tức cho tấn công vào thành.

A Hành căn vặn Liệt Dương: “Mày đi Trạch Châu thăm dò, thấy tình hình thế nào?”

Liệt Dương thản nhiên đáp: “Cứ đợi xem thành công đi! Tuy Trạch Châu không có địa thế hiểm trở như Phản thành, nhưng cũng là cửa ngõ phía Bắc của đô thành Thần Nông, được xây dựng vô cùng kiên cố, dễ thủ khó công.”

Xương Ý chen vào: “Chẳng lẽ không thể thuyết phục thành chủ đầu hàng được ư? Phụ vương rất giỏi lung lạc lòng người, nhất định lần này cũng tìm ra cách hạ thành không tốn một binh một tốt.”

Liệt Dương cười nhạt: “Du Võng hiền chứ không ngu, y thừa biết tầm quan trọng của Trạch Châu nên đã chọn một người do Xi Vưu huấn luyện, đề bạt làm thành chủ, chẳng rõ tên thật của kẻ đó là gì, chỉ biết hắn thạo điều khiển gió, được xưng tụng là Phong Bá.” Dứt lời Liệt Dương nhún mình nhảy vọt lên cành cây, nhẹ tựa lông hồng, vừa đu lên cành cây, vừa hả hê nói tiếp: “Xi Vưu là đồ vô lại, huấn luyện ra bọn thủ hạ rặt giống vô lại, để chiến thắng, thủ đoạn vô sỉ hạ lưu cỡ nào cũng không từ, có điều xưa nay chưa nghe nói người của hắn biết đầu hàng bao giờ cả!”

Xương Ý phì cười, hỏi tiếp: “Vậy nếu tấn công vào thành, Hiên Viên có tốc chiến tốc thắng được không?”

Liệt Dương lắc đầu cười hăng hắc, “Không thể xem thường thực lực của Phong Bá được! Hơn nữa, nửa năm trước hắn còn kết bái với một kẻ đến từ Xích Thủy Thị, một trong Tứ thế gia, được gọi là Vũ Sư, nghe nói rất giỏi hô mưa và rèn binh khí. Phong Bá và Vũ Sư trợ giúp, e rằng Hiên Viên muốn hạ Trạch Châu cũng đại tổn nguyên khí.”

Xương Ý bất lực đưa mắt nhìn A Hành, nàng liền lên tiếng: “Nhất định Di Bành đã giở trò với Thần Nông tộc, nếu họ đồng ý kết thông gia, chẳng phải chiến sự ở Trạch Châu cũng có thể tạm thời hóa giải ư? Việc cấp bách hiện nay là tra xem Di Bành rốt cuộc đã làm gì, nhân lúc hắn đang ở Trạch Châu, muội sẽ đi Thần Nông sơn thăm dò.”

Xương Ý lập tức cản lại: “Để ta đi! Hiện giờ muội… phải giữ gìn sức khỏe.”

“Vậy cũng được.”

Xương Ý dắt thuộc hạ vội vã lên đường. A Hành ngẩng đầu nhìn Liệt Dương, vẻ nài nỉ nhưng nó ngoảnh phắt đi, vờ như không thấy.

Nàng liền dịu giọng dỗ dành: “Người bên cạnh Tứ ca đều là cao thủ Nhược Thủy tộc, chẳng ngại đấu tay đôi, nhưng đám hán tử Nhược Thủy đó rất thật thà trung hậu, trong khi Di Bành lại là kẻ nham hiểm, ngươi đi theo quan sát tình hình giùm ta với.”

Liệt Dương trợn trừng cặp mắt xanh biếc: “Cô có ý gì đây? Định chửi xéo ta là chim nham hiểm hả?”

A Hành cười trừ, chắp tay vái Liệt Dương lia lịa. Liệt Dương hậm hực lườm nàng rồi biến lại nguyên hình, bay vút đi.

A Hành vừa vào phòng ngồi xuống đã thấy một con anh vũ bay vèo qua cửa sổ, đậu xuống trước mặt, véo von nói tiếng người: “Muốn gặp Xi Vưu thì tới Trạch Châu.”

A Hành đứng phắt dậy, chợt thấy mắt hoa cả lên, choáng váng suýt ngã.

Anh vũ ngây ngơ giơ chân gãi gãi đầu, lặp lại lần nữa: “Muốn gặp Xi Vưu thì tới Trạch Châu.”

Trạch Châu liên quan mật thiết tới an nguy của Chỉ Ấp cũng như của Thần Nông sơn, chỉ cần Xi Vưu còn một hơi thở, nhất định hắn sẽ không để mất Trạch Châu, lẽ nào hiện giờ Xi Vưu ở Trạch Châu thật ư?

A Hành nghiến răng quyết định dù gì cũng phải đi xem thế nào, bèn gọi A Tệ bay về phía Trạch Châu.

Gần tới Trạch Châu, nàng chợt nghe thấy hồi kèn triệu tập binh sĩ của Hiên Viên, liền tái mét mặt. Sắp công thành đến nơi rồi! Rốt cuộc đây là lệnh của phụ vương, hay là chủ trương Di Bành tự tiện đưa ra?

Đột nhiên, phía Tây Bắc Trạch Châu thành vút lên một tiếng sáo quen quen, chính là khúc Thiên Vấn mà Xi Vưu sáng tác, được lưu truyền rộng rãi giữa đám nam nhi Cửu Lê.

Tiếng sáo cứ phập phù lúc vang vang, khi lìm lịm, như thể người tấu đang bị thương. A Hành lắng nghe một chốc rồi thúc A Tệ lần theo tiếng sáo bay tới.

Lần theo tiếng sáo lúc bổng lúc trầm, A Hành bay thẳng về phía Tây Bắc, bỏ lại sau lưng Trạch Châu thành, bỏ lại sau lưng núi non trùng trùng điệp điệp, mãi mới tìm thấy một gã đàn ông thân vận hồng y, tóc đầu xơ xác, đứng giữa hồ thổi sáo.

Gió từ đồng hoang thổi lại, phát ra những tiếng ù ù như khóc, màu tóc đen của hắn cùng vạt áo hồng bay phần phật. Nghe tiếng A Tệ gọi, hắn liền ngẩng lên nhìn, nhoẻn cười âu yếm, mày kiếm chấm tóc mai, gương mặt vẫn còn tái mét vì bệnh, quả đúng là Xi Vưu.

A Hành chạy như bay về phía Xi Vưu, hắn cũng dang tay ra đón lấy nàng vào lòng, nào ngờ A Hành khựng lại quát khẽ: “Ngươi ruốt cuộc là ai?”

Người đàn ông phá lên cười: “Vừa nhìn đã phát hiện ra rồi à! Hẳn cô và Xi Vưu là đôi tình nhân gần gũi thân mật nhất trên đời này ấy nhỉ! Rốt cuộc ta sơ hở ở đâu hả?”

Thấy A Hành nhấc tay, lòng bàn tay lấp loáng ánh sáng, hắn cười nhạt: “Ta khuyên cô đứng động võ, để đứa bé sống thêm khắc nào hay khắc nấy.”

A Hành tái mặt, hắn lại hỏi: “Là con của ta ư?”

A Hành giận dữ vung tay đánh tới, hắn vội nghiêng người né tránh, nhưng vạt áo vẫn cháy sém một mảng.

“Theo ta được biết, Hiên Viên vương cơ tu luyện mộc linh cơ mà, đây đâu phải là pháp thuật mộc linh. Rốt cuộc trong hai trăm năm ốm liệt giường, cô đã xảy ra chuyện gì hả?”

A Hành lạnh lùng: “Ta không muốn giết người, nhưng lần này ta quyết không tha cho ngươi, bản lĩnh của ngươi cũng khá lắm, đáng lẽ chẳng nên đi theo Di Bành.”

Gã đàn ông cười ha hả: “Ta vốn cũng thương hương tiếc ngọc định nương tay đấy, tiếc rằng cô không thèm, vậy ta đành lấy mạng cô thôi.” Nói rồi hắn bắn một quả cầu lửa lên không, cầu lửa nổ bùng giữa trời không, biến thành vô số con cá đỏ rực…

Xa xa cuối chân trời bỗng vang lên tiếng nổ ì ầm như sấm động. Chỉ trong giây lát, một luồng sáng trắng tựa ngân xà từ mạn Tây Bắc uốn lượn đổ ập về phía này.

A Hành thoáng sững sờ rồi nhận ra đó chính là sông Hoạch Trạch bị ngăn dòng, thì ra phụ vương nàng cắt đứt nguồn nước của Trạch Châu không chỉ để lung lạc sĩ khí, mà còn để công thành.

Nàng vội hô A Tệ chuẩn bị chuồn, chợt nghe gã đàn ông cười nói: “Di Bành thận trọng thật, đó không chỉ là nước của Hoạch Trạch, mà còn bao gồm toàn bộ nước của Thấm hà và Đan hà nữa kia, hắn không định dùng nước tấn công Trạch Châu, mà định nhấn chìm Trạch Châu.”

A Hành bàng hoàng sợ hãi: “Các người điên rồi! Làm vậy sẽ bị trời phạt đó!”

Xi Vưu phá lên cười, A Tệ cõng A Hành toan bay vụt đi, nào ngờ hắn lắc mình một cái đã chắn trước mặt A Tệ, cười khẩy. A Tệ sợ sệt không dám giao đấu chính diện, chỉ biết luồn Đông lách Tây chạy trốn nhưng vô ích.

A Hành chẳng hiểu nguyên do, cứ một mực thôi thúc A Tệ. Cảm nhận được tử vong đang đến gần, ma tính trong người A Tệ thình lình bộc phát, lấn át cả nỗi sợ bản năng, nó gầm lên một tiếng khiến Xi Vưu giật nảy mình lùi lại, A Tệ liền cướp đường bay vút lên.

Gã đàn ông nhìn theo bóng họ, dang tay thở dài: “Muộn rồi!”

Luồng nước cuồn cuộn ngất trời đổ ập xuống như sấm sét, cuốn phăng A Hành và A Tệ, tách lìa cả hai.

Nước là khởi nguồn của sự sống, nhưng khi cuội nguồn hóa thành quái vật nuốt chửng sinh mệnh thì chẳng thứ gì ngăn nổi. Bất kể A Hành thúc động bao nhiêu linh lực, dòng nước vô cùng vô tận này đều hấp thu hết bấy nhiêu, không để sót mảy may.

A Hành đành bất lực cuộn tròn người lại, gắng bảo vệ đứa bé trong bụng.

Nhưng khắp bốn bề đều cuồn cuộn nước lũ, không sao nhìn thấy phương hướng, mấy lần nàng toan rẽ nước nhô lên, nhưng lại bị sóng dồi đẩy thốc xuống đáy nước.

Càng lúc A Hành càng đuối dần, chỉ biết dồn tất cả linh lực còn lại vào bụng, che chở cho đứa con đang thành hình.

Tới lúc sống chết cách nhau một đường tơ, mọi thứ đều chẳng còn quan trọng nữa, trước mắt A Hành toàn là hình ảnh của Xi Vưu…

Xi Vưu, rốt cuộc chàng đang ở đâu? Chàng đã hứa sẽ bảo vệ ta, nhưng giờ chàng đâu rồi?

A Hành bị hút vào xoáy nước quay mòng mòng đến choáng váng đầu óc, dòng nước còn liên tục đập mạnh vào bụng nàng, khiến nàng cảm thấy đứa bé đang giãy đạp. Đây là lần đầu cái thai mẩy động, đáng lẽ phải vui mừng, nhưng A Hành chỉ thấy nỗi bi ai và kinh hoàng trước cái chết.

Con của chúng mình, con của chúng mình… Xi Vưu, chàng làm cha rồi đấy! Chàng phải luôn luôn bảo vệ cho con mới đúng chứ?

A Hành cắn mạnh vào lưỡi để máu và cơn đau giữ cho mình khỏi thiếp đi, dồn tất cả linh lực còn sót lại vào bụng.

Xi Vưu, rốt cuộc chàng đang ở đâu? Tại sao cứ để ta một thân một mình chống chọi với mọi chuyện? Vì sao lúc ta cần chàng nhất chàng đều không có mặt?

Hơi thở của A Hành cứ yếu dần đi, đứa bé trong bụng đã được mười hai tháng, bắt đầu có trực giác, dường như nó cũng cảm nhận được nguy cơ nên ra sức đạp nàng, nài nỉ nàng cứu nó, nhưng nàng… Nàng đã cạn sức tàn hơi, cả người cứng đờ, không sao cử động nổi, chỉ biết giương mắt nhìn dòng nước lũ cuồn cuộn đổ ập xuống đầu mình.

Xi Vưu… Xi Vưu…

Trái tim A Hành cứ lạnh dần, mắt nàng từ từ tối sầm lại, bên tai láng máng nghe thấy tiếng khóc của trẻ nít, nước mắt trào ra thành dòng, hòa vào dòng nước lũ lạnh lẽo vô tình, tan đi không dấu vết.

Xi Vưu, ta hận chàng!

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.