Phải mất hai ngày McCaleb mới tìm được bức tranh mà Daniel Crimmins dưới lốt James Noone đã vẽ trong buổi thôi miên. Ông khởi hành ở Rosarita Beach, đi dần về phía Nam. Ông tìm thấy nó giữa La Fonda và Ensenada trên một dải bờ biển heo hút. Playa Grande là một làng nhỏ nằm trên một ghềnh đá hai tầng trông ra biển. Làng chủ yếu bao gồm một khách sạn có sáu căn nhà gỗ nhỏ một tầng nằm biệt lập, một cửa hàng đồ gốm, một nhà hàng nhỏ, một cái chợ và một trạm Pemex. Còn có một cái chuồng nhỏ cho thuê ngựa để cưỡi xuống bãi biển. Khu trung tâm thương mại này, nếu nó đủ lớn để có thể gọi vậy, nằm nơi mép một vách đá nhìn xuống bãi biển. Nơi triền đá bên trên nó là những căn nhà nhỏ và nhà lưu động nằm rải rác thành một vùng khá rộng.
Cái làm cho McCaleb dừng lại là chuồng ngựa. Ông nhớ Crimmins đã mô tả những con ngựa trên bờ biển. Ông chui ra khỏi chiếc Cherokee, đi xuống con đường mòn dốc cắt qua những mỏm đá dẫn ra bờ biển. Bờ biển rộng rãi, trắng phau là một khu đất tư nhân dài khoảng hơn cây số rưỡi, hai đầu bị án ngữ bởi những triền đá khổng lồ lởm chởm nhô ra biển. Gần đầu cuối về phía Nam, McCaleb thấy mỏm đá chìa ra mà Crimmins đã mô tả trong buổi thôi miên. McCaleb biết, cách tốt nhất và có sức thuyết phục nhất để nói dối là nói sự thật càng nhiều càng tốt. Thế nên ông coi những lời nghi phạm mô tả cái nơi khiến hắn nhẹ nhõm thư thái nhất trên thế giới chính là để mô tả một nơi có thực mà hắn biết, Giờ thì McCaleb đã tìm ra nơi ấy.
Ông tìm ra được Playa Grande này chỉ nhờ cách diễn dịch và điều tra thực địa. Khung cảnh mà Crimmins mô tả tại buổi thôi miên rõ ràng là bờ Thái Bình Dương. Hắn nói hắn thích đi xuống chỗ này, và bởi McCaleb biết, chẳng có bờ biển nào ở California về phía Nam Los Angeles mà lại xa như hắn tả hoặc trên đó có mấy con ngựa, nên hiển nhiên nơi đó chỉ có thể là Mexico. Và bởi Crimmins nói hắn lái xe tới đó cho nên gần như có thể loại trừ khả năng ấy là Cabo hay những điểm khác xa hơn về phía Nam dọc theo bán đảo Baja. Phải mất hai ngày để đi khảo sát suốt vùng bờ biển còn lại. McCaleb dừng chân ở bất cứ làng nào và bất cứ lúc nào nhìn thấy có lối rẽ ngang từ xa lộ dẫn ra bờ biển.
Crimmins nói đúng. Chỗ này quả thật đẹp và yên bình. Cát mịn như đường và hàng triệu năm sóng đập đã đào một vết lõm sâu vào mặt đá, tạo thành mỏm đá nhô ra chẳng giống gì hơn một làn sóng bằng đá cuộn lên và sắp sửa đập vào vỡ tan trên bờ biển.
McCaleb cũng là người duy nhất trên bờ biển dù nhìn từ hướng nào. Hôm nay ngày thường nên ông đoán rằng từ giờ tới cuối tuần dải cát này chủ yếu là vắng bóng người. Chính vì vậy Crimmins mới ưa nó.
Trên bờ biển có ba con ngựa. Chúng đi loanh quanh một cái máng ăn trống rỗng trong khi chờ khách. Chẳng cần buộc chúng làm gì. Bãi biển hoàn toàn bị nước và đá vây bọc bốn bề. Lối duy nhất để ra khỏi đó là lối mòn dốc dẫn ngược lên chuồng ngựa.
McCaleb đội mũ chơi bóng chày và đeo kính râm để tránh cái nắng gay gắt giữa trưa. Ông vẫn đang còn mặc quần dài và áo gió. Nhưng, bị vẻ đẹp của chốn này mê hoặc, ông nán lại trên bờ biển hồi lâu sau khi đã xác định rằng Daniel Crimmins chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Sau một lát, một cậu thiếu niên mặc quần ngắn, áo phông cộc tay đi dọc theo lối mòn xuống bãi biển và lại gần.
“Ông có muốn cưỡi ngựa không ạ?”
“Không, gracias[2].”
[2] Tiếng Tây Ban Nha, nghĩa là “cám ơn”. (Chú thích của dịch giả).
McCaleb rút trong túi áo khoác ra các bức ảnh gấp lại mà Tony Banks in ra từ mấy cuốn băng. Ông chìa ảnh cho cậu bé xem.
“Cháu đã gặp chưa? Người này... Tôi muốn tìm.”
Cậu bé nhìn mấy bức ảnh nhưng không tỏ vẻ gì là hiểu. Cuối cùng cậu chỉ lắc đầu.
“Không, không thấy.”
Cậu quay người đi trở lại về phía lối mòn. McCaleb đút ảnh vào lại túi áo rồi vài phút sau chính mình cũng đi về phía lối đi dốc đứng kia. Trên đường leo lên ông dừng lại nghỉ hai lần, thế nhưng vẫn mệt đứt hơi.
McCaleb ăn trưa bằng bánh enchidala nhồi tôm hùm ở nhà hàng. Bữa ăn tốn của ông số tiền tương đương 5 đô la Mỹ. Ông chìa mấy tấm ảnh ra thêm vài lần nữa nhưng không ai nhận ra người trong ảnh. Ăn trưa xong ông lại chỗ trạm Pemex, dùng điện thoại trả tiền trước ở đó để kiểm tra xem có tin nhắn nào nơi điện thoại ở thuyền không. Chẳng có tin nào. Đoạn ông gọi số Graciela đến lần thứ tư kể từ khi mới lên đường đến giờ, và một lần nữa chỉ nghe máy trả lời tự động. Lần này ông không để lại tin nhắn. Nếu nàng lờ đi các cuộc gọi của ông, có thể ấy là vì chẳng qua nàng không còn muốn nói chuyện với ông nữa.
McCaleb đăng ký nhận phòng ở khách sạn Playa Grande, trả tiền mặt và dùng tên giả. Nghĩ một chút, ông đưa mấy bức ảnh cho người đàn ông ngồi sau quầy trong văn phòng nhỏ của khách sạn và lại được câu trả lời “không biết”.
Căn nhà gỗ nhỏ ông thuê nhìn được một phần bãi biển bên dưới, và trông thẳng ra Thái Bình Dương. Ông kiểm tra xem từ đây có thể nhìn thấy gì trên bãi biển, dưới đó vẫn vắng ngắt trừ mấy con ngựa. Ông cởi áo gió rồi quyết định ngủ một chút. Ông mệt nhoài vì đã hai ngày nay toàn lái xe trên những con đường xấu, cuốc bộ trên cát và trèo dốc.
Trước khi nằm, ông mở cái túi đang để trên giường ra, đem bàn chải răng và ống kem đánh răng vào buồng tắm rồi bày mấy lọ thuốc cùng hộp đựng nhiệt kế dùng một lần lên bàn ngủ. Ông cũng lấy khẩu Sig-Sauer ra khỏi túi đặt lên bàn. Xưa nay mang vũ khí qua biên giới luôn luôn là việc hơi liều. Tuy nhiên ở chỗ cửa khẩu, đúng như McCaleb chờ đợi, các tay hải quan Mexico chán ngán chỉ vẫy tay cho ông qua.
Trong khi chìm vào giấc ngủ, đầu vùi giữa hai cái gối mốc meo, ông quyết định sẽ thử ra bãi biển một lần nữa lúc mặt trời lặn. Trong buổi thôi miên Crimmins có mô tả khi mặt trời lặn. Có lẽ lúc đó hắn sẽ ra bãi biển. Nếu không, McCaleb quyết định sẽ tìm Crimmins ở khu nhà rải rác phía trên ngôi làng. McCaleb tin chắc mình sẽ tìm ra hắn. Ông chẳng nghi ngờ gì rằng đã tìm được nơi mà Crimmins mô tả.
Lần đầu tiên trong nhiều tháng qua ông nằm mơ có màu sắc, mắt ông chuyển động lia lịa dưới hai mí khép chặt. Ông ngồi trên lưng một con ngựa đang chạy trốn, một con Appaloosa đồ sộ màu giống hệt như cát ướt, nó phi nước đại xuống bờ biển. Ông bị truy đuổi nhưng vì ngồi trên lưng ngựa không vững nên ông không thể quay lại xem ai đang đuổi theo mình. Ông chỉ biết rằng mình phải chạy, rằng nếu dừng lại là xong đời.
Móng con ngựa phi nước đại làm cát ướt bắn thành từng cục lên không.
Tiết tấu đều đều của vó ngựa bị thay bằng tiếng đập thình thình của tim ông. McCaleb sực tỉnh và cố trấn an cơ thể mình. Sau một lát ông quyết định nên kiểm tra nhiệt độ.
Khi ngồi dậy thả hai chân xuống thảm, mắt ông nhìn để kiểm tra bàn ngủ theo thói quen. Ông tìm cái đồng hồ vẫn thường để trên bàn ngủ cạnh giường ở trên thuyền. Nhưng ở đây không có đồng hồ. Ông ngoảnh đi nhưng rồi mắt lại đảo ngay về phía bàn ngủ khi ông nhận ra rằng khẩu súng đã biến mất.
McCaleb nhanh chóng đứng dậy nhìn quanh phòng, cảm giác kỳ lạ rằng có gì đó không ổn choáng ngợp ông. Ông biết mình đã để khẩu súng trên bàn trước khi ngủ. Có ai đó đã vào phòng trong khi ông ngủ. Crimmins. Ông không nghi ngờ gì. Crimmins đã vào phòng.
Ông hối hả kiểm tra áo gió và túi xách thì thấy không thiếu gì khác. Ông nhìn khắp phòng lần nữa, thế rồi mắt ông bắt gặp một chiếc cần câu dựng trong góc phòng cạnh cửa. Ông lại chỗ góc phòng chộp lấy chiếc cần câu. Nó cùng loại với bộ cần và ống dây câu mà ông đã mua cho Raymond. Khi xoay xoay cần câu trên tay mà nhìn kỹ, ông phát hiện thấy hai chữ viết tắt RT khắc vào chỗ tay cầm làm bằng bần. Raymond đã khắc hai chữ đó để làm dấu là cần của mình. Hoặc ai đó đã làm dấu cho chú bé. Nhưng dù gì thì gì, thông điệp quá rõ. Crimmins đang nắm Raymond trong tay hắn.
Giờ thì McCaleb tỉnh như sáo, nỗi kinh sợ làm đau thắt toàn bộ ngực ông. Ông luồn hai bàn tay nắm lại thành quả đấm vào hai tay áo khoác, tròng áo vào rồi ra khỏi căn nhà gỗ sau khi xem xét kỹ cửa ra vào và thấy không có dấu hiệu gì là khóa bị cạy. Ông tất tả đi lại chỗ văn phòng khách sạn, chuông treo trên đầu kêu inh ỏi khi ông mở toang cửa ra. Người đã nhận tiền của ông ban nãy đứng dậy khỏi ghế phía sau quầy, một nụ cười ngượng nghịu trên mặt. Anh ta sắp sửa nói gì đó thì McCaleb, bằng một động tác dứt khoát, đã tiến lại quầy, vươn tay qua quầy túm ngực áo anh ta. Ông kéo thốc anh ta về phía trước cho đến khi toàn thân anh ta nằm sấp trên quầy, mép bàn formica ấn sâu vào vùng ruột chính của anh ta. McCaleb cúi xuống cho đến khi ghé sát vào mặt người đàn ông.
“Hắn đâu?”
“Qué[3]?”
[3] “Cái gì?” (tiếng Tây Ban Nha) (DG).
“Gã đó, người mà anh đưa cho chìa khóa phòng tôi ấy. Hắn đâu?”
“Không hablar...[4]”
[4] “Không nói được [tiếng Anh]...” (pha tiếng Tây Ban Nha) (DG).
McCaleb kéo áo gã đàn ông mạnh hơn nữa đồng thời chẹn cánh tay trước lên gáy anh ta. Ông cảm thấy sức lực của chính mình đang suy giảm, nhưng vẫn đè xuống mạnh hơn.
“Nói lăng nhăng, anh mà không biết à. Hắn đâu?”
Người đàn ông lắp bắp rên rỉ.
“Tôi không biết,” rốt cuộc anh ta nói. “Xin ông. Tôi không biết hắn ở đâu mà.”
“Hắn đến đây một mình à?”
“Vâng, một mình.”
“Hắn sống ở đâu?”
“Cái ấy tôi không biết. Xin ông. Hắn nói hắn là em trai ông và có món bất ngờ cho ông. Tôi đưa chìa khóa cho hắn để hắn làm ông bất ngờ.”
McCaleb buông tay và đẩy ngược gã đàn ông về lại sau quầy mạnh đến nỗi anh ta rơi phịch thẳng xuống ghế. Anh ta giơ cả hai tay lên với vẻ cầu khẩn, và McCaleb nhận ra chắc hẳn mình đã làm anh ta sợ vãi linh hồn.
“Xin ông.”
“Xin cái gì?”
“Xin ông. Tôi không muốn có chuyện rắc rối.”
“Muộn quá rồi. Làm sao hắn biết tôi ở đây?”
“Tôi gọi hắn. Hắn trả tiền tôi. Hắn đến đây hôm qua nói là ông có thể đến. Hắn cho tôi số điện thoại. Hắn trả tiền tôi.”
“Nhưng làm sao anh biết là tôi?”
“Hắn đưa ảnh cho tôi.”
“Được rồi, đưa cho tôi. Số điện thoại và bức ảnh.”
Chẳng chút chần chừ gã đàn ông với tay về phía một ngăn kéo trước mặt. McCaleb lẹ làng rướn tới chộp cổ tay anh ta mà giằng mạnh khỏi chiếc ngăn kéo. Ông tự mình mở ngăn kéo và rồi mắt ông dừng lại trên một tấm ảnh nằm trên cùng một mớ giấy tờ. Nó là ảnh chụp McCaleb đi dọc đê chắn sóng bằng đá gần vũng neo thuyền cùng với Graciela và Raymond. McCaleb có thể cảm thấy mặt mình đỏ ké khi cơn giận làm máu dồn lên hai quai hàm rắn đanh lại. Ông cầm bức ảnh lên rồi lật mặt sau xem. Trên mặt sau ảnh có ghi một số điện thoại.
“Xin ông,” nhân viên khách sạn nói. “Ông cầm tiền đi. Một trăm đô Mỹ. Tôi không muốn có chuyện phiền phức cho ông.”
Anh ta dợm thò tay vào túi áo sơ mi.
“Không,” McCaleb nói. “Anh giữ lấy. Anh kiếm được mà.”
Đoạn ông giật tung cửa, va vào cái chuông trên đầu mạnh đến nỗi dây treo chuông đứt phựt và quả chuông rơi sầm xuống góc văn phòng.
Ông đi qua bãi đỗ xe rải sỏi, tiến về phía máy điện thoại ở trạm Pemex. Ông quay số điện thoại ghi phía sau bức ảnh rồi lắng nghe chuỗi tiếng lách cách trên đường dây trong khi cuộc gọi đi qua ít nhất hai mạch chuyển tiếp. McCaleb tự rủa thầm. Ông sẽ không thể dựa vào số điện thoại mà truy ra địa chỉ, thậm chí dù ông có nhờ được ai đó ở chính quyền địa phương làm việc đó giúp ông đi nữa.
Cuối cùng cuộc gọi đến được mạch cuối cùng và bắt đầu reo. McCaleb nín thở đợi nhưng chẳng ai nhấc ống nghe, máy trả lời tự động cũng không. Sau mười hai tiếng chuông ông dập mạnh ống nghe xuống giá đỡ nhưng cái ống nghe liền bật trở ra, rơi xuống, đong đưa toòng teng bên dưới cái điện thoại. McCaleb đứng như trời trồng vì giận dữ và bởi nỗi bất lực của tình thế mình, trong khi tiếng điện thoại vẫn tiếp tục reo nho nhỏ từ bên dưới.
Sau một hồi lâu ông nhận ra mình đang nhìn đăm đăm ra bãi đỗ xe của khách sạn qua vách kính buồng điệu thoại. Chiếc Cherokee của ông nằm đó và rồi một chiếc nữa. Một chiếc Caprice trắng lấm bụi, phía sau có biển đăng ký bang California.
Nhanh chóng, ông rời buồng điện thoại, băng qua bãi đỗ xe để ra phía đường mòn dần xuống bờ biển. Đường mòn cắt ngang nhiều triền đá và che khuất cảnh quan bên dưới. Cho mãi đến khi xuống dưới đáy và rẽ trái lần cuối, McCaleb mới nhìn thấy bãi biển.
Bãi biển chẳng có ai. Ông vừa đi thẳng ra mép nước vừa nhìn cả trước lẫn sau nhưng bờ cát cả đằng này lẫn đằng kia đều vắng ngắt. Kể cả ngựa cũng đã được đưa về chuồng nghỉ trưa. Cuối cùng mắt ông hướng về phía những hõm bóng râm bên dưới vòm đá nhô ra. Ông tiến về phía đó.
Bên dưới vòm đá nhô ra, tiếng sóng vỗ được khuếch đại đến mức nghe như tiếng reo hò trong sân vận động. Do vừa từ ngoài ánh sáng chói chang nơi bãi biển trống lộng bước vào chỗ bóng râm thụt sâu dưới mỏm đá, McCaleb bị lóa mắt một chút. Ông đứng lại, nhắm chặt mắt rồi lại mở ra. Khi nhìn rõ trở lại, ông thấy đường viền của tảng đá lởm chởm bao quanh mình. Thế rồi từ trong hốc sâu nhất của khoảnh đất bị đá quây kín bốn bề ấy, Crimmins bước ra. Hắn cầm khẩu Sig-Sauer trong tay phải, họng súng chĩa vào McCaleb.
“Tao không muốn làm hại mày,” hắn nói. “Nhưng mày biết nếu phải làm thế thì tao sẽ làm.”
Hắn nói to để giọng hắn át được tiếng ầm ì và vọng âm của sóng biển.
“Nó đâu, Crimmins? Raymond đâu?”
“Mày không định nói ‘Hai dì cháu đâu?’ hay sao?”
McCaleb cũng đã đồ chừng như thế, nhưng khi đã nghe được gã kia xác nhận rằng Graciela và Raymond đang nằm trong tay hắn, nghĩ đến nỗi kinh hoàng của hai người lúc này - nếu họ vẫn còn sống - McCaleb choáng váng. Ông tiến một bước về phía Crimmins nhưng rồi khựng lại khi Crimmins nâng mũi súng chĩa vào ngực ông.
“Thoải mái đi nào. Bình tĩnh đi. Cả hai đang bình yên vô sự, đặc vụ McCaleb ạ. Chớ phải lo chuyện ấy. Thật ra họ an toàn hay không là nằm trong tay mày. Không phải tay tao.”
McCaleb dò xét nhanh Crimmins. Giờ thì hắn để tóc đen nhánh và ria mép. Hắn đang nuôi râu hàm hoặc đang cần cạo râu. Hắn mang bốt có các ngón tõe ra, mặc quần jeans đen và áo cao bồi bằng vải jean có túi kép, một đường khâu kiểu cọ vắt ngang qua ngực, vẻ ngoài của hắn bây giờ vừa giống Người Tốt bụng lại vừa giống James Noone.
“Mày muốn gì?” McCaleb hỏi.
Crimmins làm như không nghe thấy câu hỏi. Hắn nói bằng giọng bình thản. Hắn tự tin mình đang ở trên cơ.
“Tao biết nếu có ai đó đến thì đấy là mày. Tao phải cẩn thận chứ.”
“Tao hỏi, mày muốn gì? Mày muốn tao, có phải không?”
Crimmins nhìn ra phía sau McCaleb với vẻ đăm chiêu, lắc đầu. McCaleb nhìn kỹ khẩu súng. Ông có thể thấy chốt an toàn đã được mở. Nhưng cò súng lại không được bật ra sau. Chẳng thể nào biết được Crimmins đã lên đạn hay chưa.
“Hoàng hôn cuối cùng của tao ở đây,” Crimmins nói. “Bây giờ tao phải rời chốn này.”
Hắn nhìn lại McCaleb, mỉm cười như thể mời McCaleb thừa nhận mình thua.
“Mày hành sự tốt hơn tao tưởng nhiều đó.”
“Không phải tao. Mà là mày, Crimmins. Mày làm hư hết cả. Mày để dấu tay lại cho họ. Mày nói cho tao biết chỗ này.”
Crimmins cau mày gật đầu, thừa nhận sai lầm của mình. Một hồi im lặng dài trôi qua.
“Tao biết vì sao mày đến đây,” cuối cùng hắn nói.
McCaleb không đáp.
“Mày muốn lấy khỏi tao món quà tao đã cho mày.”
McCaleb nghe nỗi căm thù đắng nghét trào lên thiêu đốt cổ họng mình. Ông im lặng.
“Cái thằng chỉ chăm chăm báo thù,” Crimmins nói. “Tao cứ nghĩ tao đã nói với mày rằng thực thi báo thù là việc phù du đến mức nào rồi chứ.”
“Có phải đó là thứ mày học được sau khi giết tất cả những người đó không? Tao cá rằng khi mày nhắm mắt lại về đêm, ông già vẫn cứ ở đó, cho dù mày giết bao nhiêu người đi nữa. Ông ta sẽ chẳng đi đâu cả, đúng không nào? Ông ta đã làm gì mày hả Crimmins, để đến nỗi mày điên lên như thế?”
Crimmins siết chặt khẩu súng hơn và McCaleb có thể thấy quai hàm hắn nổi rõ hơn.
“Đây không phải chuyện đó,” hắn giận dữ đáp. “Mà là chuyện mày. Tao muốn mày sống. Tao muốn sống. Nếu mày không sống thì chuyện này chẳng đáng một tẹo nào. Mày không thấy à? Mày không cảm thấy mối liên hệ giữa mày với tao hay sao? Hai ta bây giờ cột chặt vào nhau rồi. Như anh em ruột ấy.”
“Mày điên rồi, Crimmins.”
“Tao có là gì thì cũng không phải tại tao.”
“Tao không có thì giờ nghe những thanh minh của mày. Mày muốn gì?”
“Tao muốn mày cảm ơn tao vì mày được sống. Tao muốn được yên thân. Tao muốn có thời gian. Tao cần thời gian để di chuyển đồ đạc và tìm chỗ mới. Mày sẽ phải cho tao cái đó ngay bây giờ.”
“Làm sao tao biết chắc mày đang giữ họ? Mày có cái cần câu. Đó chả là gì sất.”
“Bởi vì mày biết tao. Mày biết là tao đang giữ họ.”
Hắn đợi nhưng McCaleb không nói gì.
“Tao có mặt ở đó hồi nãy lúc mày gọi điện và quỳ mọp trước điện thoại của cô nàng, lúc mày van xin cô nàng nhấc máy y như chú nhóc học trò lâm ly sướt mướt.”
McCaleb cảm thấy cơn giận của ông đâm ra bị nỗi bối rối che lấp mất.
“Họ đâu?” ông hét.
“Gần thôi.”
“Chó đẻ. Sao mày lại dám đưa họ qua biên giới cơ chứ?”
Crimmins mỉm cười rồi ra hiệu bằng khẩu súng.
“Thì cũng giống như mày đến tận đây thôi. Đi về phía Nam thì chả ai hỏi han gì. Tao có cho Graciela lựa chọn. Cô ả với thằng nhóc có thể ngồi phía trước và được đối xử rất chi là tử tế, còn nếu không thì ngồi trong thùng xe. Cô nàng biết cư xử phù hợp đấy.”
“Tốt nhất là mày đừng đụng tới họ.”
McCaleb nhận ra giọng mình nghe mới tuyệt vọng làm sao và ước gì mình đã không nói thế.
“Tao đụng tới họ hay không là tùy ở mày.”
“Làm sao?”
“Tao đi bây giờ đây. Mày chớ theo tao. Mày đừng cố gắng công bám dấu tao. Mày chui vào xe mà về lại thuyền mày đi. Mày ngồi bên điện thoại, chốc chốc tao sẽ gọi điện để bảo đảm là mày ở đó chứ không bám theo tao. Chừng nào tao biết tao đã an toàn xa khỏi mày rồi thì tao sẽ cho con đàn bà với thằng nhóc đi.”
McCaleb lắc đầu. Ông biết là hắn nói dối. Giết Graciela và Raymond sẽ là nỗi đau đớn cuối cùng mà Crimmins ban cho ông một cách vui vẻ và không mảy may thấy mình có tội. Thắng lợi tối hậu. Ông biết dù sau đây xảy ra chuyện gì đi nữa, ông không thể để Crimmins còn sống mà ta khỏi bãi biển này. Ông đã đến Mexico vì một lý do. Lúc này ông phải hành động vì lý do đó.
Crimmins dường như biết ông đang nghĩ gì, hắn cười.
“Chẳng có cách nào khác đâu. Đặc vụ McCaleb. Hoặc tao đi khỏi đây hoặc là hai chúng nó chết trong một cái lỗ đen ngòm. Mày giết tao thì sẽ chả ai tìm thấy hai chúng nó. Còn lâu mới tìm được. Đói khát này, tăm tối này... kinh khủng lắm, còn không à. Với lại, có chuyện này mày quên.”
Hắn lại nâng súng lên và chờ một nhịp để nghe McCaleb đáp lời, nhưng chẳng có gì.
“Tao hy vọng mày thường xuyên nghĩ tới tao,” Crimmins nói. “Như tao sẽ nghĩ tới mày.”
Hắn dợm bước về phía ánh sáng.
“Này Crimmins,” McCaleb nói. “Mày chả có gì hết.”
Crimmins quay lại và mắt hắn hạ xuống khẩu súng hiện nằm trong tay McCaleb. McCaleb tiến hai bước về phía hắn rồi nâng họng khẩu P7 lên ngực hắn.
“Lẽ ra mày phải kiểm tra cái túi xách.”
Crimmins phản công bằng cách chĩa khẩu Sig-Sauer vào ngực McCaleb.
“Súng mày rỗng, Crimmins ạ.”
McCaleb thấy một chút nghi ngờ thoáng qua mắt gã kia. Thoáng qua thôi nhưng ông bắt kịp. Ông biết ngay là Crimmins đã không kiểm tra súng. Hắn không biết rằng súng có đầy một băng đạn nhưng chưa viên đạn nào được lên nòng cả.
“Nhưng khẩu này thì không.”
Họ đứng đó, mỗi người chĩa họng súng của mình vào tim người kia chỉ cách ba mươi phân. Crimmins nhìn xuống khẩu P7, rồi nhìn lên mắt McCaleb. Hắn nhìn chăm chú, như cố đọc ra một điều gì. Ngay khoảnh khắc đó McCaleb nghĩ đến bức ảnh trong bài báo. Cặp mắt có cái nhìn sắc nhọn không một chút khoan dung. Ông biết rằng lúc này ông đang có chính cặp mắt đó.
Crimmins bóp cò khẩu Sig-Sauer. Cò súng bập vào ổ đạn rỗng. McCaleb bóp cò khẩu P7 rồi quan sát trong khi Crimmins bật ra phía sau và ngã bổ ngửa lên nền cát, hai tay dang thẳng chín mươi độ, mồm há hốc vì kinh ngạc.
McCaleb tiến lại gần hắn, giằng lấy khẩu Sig-Sauer. Đoạn ông lấy áo mình lau sạch khẩu P7 rồi thả xuống cát, ngay ngoài tầm với của kẻ đang hấp hối.
McCaleb quỳ xuống, cúi mình trên Crimmins, cẩn thận không để mình vấy máu.
“Này Crimmins, tao không biết liệu tao có tin Thượng đế không, nhưng tao sẽ nghe mày xưng tội. Nói tao nghe họ ở đâu. Giúp tao cứu họ đi. Chấm dứt chuyện này bằng một nghĩa cử tốt đi.”
“*** má mày,” Crimmins nói mạnh mẽ, mồm nhoe nhoét máu. “Hai đứa nó chết là vì mày.”
Hắn nhấc tay lên chỉ một ngón vào McCaleb. Đoạn hắn buông thõng tay xuống cát và xem ra kiệt sức vì hành động bùng phát đó. Hắn nhúc nhích môi thêm lần nữa nhưng McCaleb không nghe được hắn nói gì. Ông cúi xuống gần hơn.
“Mày nói gì vậy?”
“Tao đã cứu mày. Tao cho mày sự sống.”
Chừng đó McCaleb đứng dậy, vừa phủi cát khỏi quần vừa nhìn xuống Crimmins. Mắt hắn đang ứa lệ và miệng hắn động đậy trong khi hắn nhọc nhằn thở mấy hơi cuối cùng. Mắt hai người gặp nhau và dừng lại.
“Mày lầm rồi,” McCaleb nói. “Tao đổi mày để lấy tao. Tao cứu chính tao.”