Trong lúc mơ mơ màng màng, Vô Thích nhận thấy có thứ gì đó như nước dội vào ngực của cô. Dòng nước lúc nóng lúc lạnh xâm nhập vào lòng ngực của cô, khiến cô cảm thấy choáng ngợp, cơ thể như bị dày vò tra tấn, đau đớn như có ngàn vạn con kiến bò khắp trong ngoài cơ thể.
Vô Thích bật nhào ngồi dậy, bên mặt mồ hôi trãi đầy, mắt kinh hãi, thở hỗn hển.
Sau một hồi định thần mới nhận ra mình vẫn còn đang ngồi ngay miệng hang, bên ngoài trời đã tạnh mưa, chỉ còn vài hạt lắc rắc rơi tung tóe trên vũng nước trên mặt đất. Vô Thích đứng lên, cô không đi ra ngoài như ý định tháo chạy khỏi nguy hiểm như vừa rồi mà chăm chăm nhìn sâu vào bên trong hang tối.
Bên trong tối đen tĩnh mịch, nhưng nhìn một hồi dần dần có thể mờ nhạt thấy được bên trong có một bức tượng đá hình người trấn giữ. Vô Thích liền nhận ra bản thân mình tại sao lại không có cảm giác sợ hãi như vừa rồi, lẽ nào trong lúc cô bị thứ gì đó làm bất tỉnh đã xảy ra chuyện gì?
Chuyện khó hiểu đó để sau, nếu lúc này trong cô không còn cảm giác sợ hãi, thì tính hiếu kì của cô lại trỗi lên mạnh mẽ. Cô muốn biết là ai bên trong, hay chính bức tượng hình người kia vừa rồi đã gọi tên cô.
Bước chân không nhanh vội, càng không lề mề, mà chậm rãi cẩn thận từng bước một cảnh giác vào sâu bên trong.
Bóng đêm tĩnh mịch chính là thứ mà Vô Thích trước kia vô cùng sợ hãi, nhưng so với lần này cô cảm thấy bóng tối không có gì đáng sợ, cảm thấy có chút quen thuộc, có chút thoải mái.
Bên trong hang động hoàn toàn không có gì khác thường, vẫn là một bóng tối chiếm lĩnh, dưới chân như đạp phải thứ gì đó, Vô Thích dừng chân, nhìn xuống, chính là xương người trãi đầy, cô có chút hoang mang nhưng vẫn là bình tĩnh đến lạ thường. Tránh né những phần xương cốt trãi đầy khắp nơi tiến vào sâu hơn, cô dừng lại trước một bức tượng đá hình người vô cùng quen thuộc.
Đây so với bức tượng đá trong lãnh cung của cung điện Thiên Tước hoàn toàn giống nhau, chỉ khác ở kích thước chênh lệch quá nhiều. Nếu nói bức tượng quỷ trong lãnh cung nhỏ hơn kích thước con người thì bức tượng quỷ này lại cao lớn hơn cô đến bốn năm lần. Vô Thích quan sát thạch quỷ hai tay ôm đầu thê lương ai oán, cô không chút sợ hãi, nhuếch mép: “Vừa rồi vẫn chính là ngươi gọi ta?”
“Đeo bám ta cũng tốt nhỉ, từ cung điện đến tận nơi đây. Rốt cục ngươi muốn ở gì nơi ta?”
Đáp trả vẫn chính là sự tĩnh mịch, Vô Thích nhàm chán khi không tìm hiểu được gì đành bỏ đi ra khỏi hang động. Nhìn quanh một lượt vẫn là đã quên mất phương hướng, đành bất lực đi trong vô thức. Tại sao cô lại bị nước đưa tới thời đại này, tại sao cô lại nhiều lần nhìn thấy u hồn, cô vì sao phải đối diện với thạch quỷ? Thạch quỷ vì sao lại biết tên cô, kêu gọi cô? Cô vì sao sau hai lần gặp thạch quỷ liền bất tỉnh, tỉnh lại lần thứ hai chính là không biết sợ hãi bóng tối, không sợ hãi một mình trong rừng hoang, và dường như đã không còn sợ hãi…
Tiếng gió âm lãnh từ xa xa vọng về, Vô Thích mới nhận ra cô cứ đi mãi vậy mà trời đã tối. Khu rừng sau khi trãi qua một cơn mưa lớn, càng về đêm càng u lãnh. Trong gió vi vu thi thoảng nghe đâu có giọng hát ngâm nga. Vô Thích trước kia vì sợ nên dẹp bỏ hiếu kì, bây giờ ngược lại không còn sợ mới tăng thêm hiếu kì trong lòng.
Đi theo hướng gió rét lạnh nhàn nhạt là một giọng ngâm nga trong trẻo vang vọng trong không gian u lãnh, Vô Thích dừng chân khi nhìn thấy phía trước có đoàn người đang ngang qua.
Là người sao? Vô Thích tự nhuếch môi cười.
Đoàn người không mấy đông, có một phụ nữ đi đầu, một nô tỳ đi bên cạnh một chiếc kiệu được bốn nam nhân khiêng trên vai. Phía sau xa còn có một vài nam nhân khác đi theo, trên vai gánh vác những chiếc rương nặng chịt. Nhưng tất cả đều đồng nhất một màu, y phục vải trắng, kiệu hoa màu trắng, rương hòm màu trắng.
Chỉ có tà khí lẫn quẫn bên cạnh là màu sương đen ẩn dật chập chờn.
Vô Thích đứng bên thân cây phóng tầm mắt quan sát kĩ hơn, tất cả bọn họ, ngoại trừ tồn tại bên trong kiệu không nhìn thấy được thì những oan hồn bên ngoài đều bước đi trong vô thức, mặt đều cúi xuống.
Đoàn người trắng ngần dưới màn sương đen lượn lờ ngang qua đoạn rừng cây cối lưa thưa, cành cây tán lá nhè nhẹ được gió thi thoảng lao xao, vi vu vang ra thành bản nhạt quỷ dị nơi chốn tĩnh mịch cô quạnh. Chưa đủ thê lương bởi tiếng gió như tiếng sáo réo rắt ai oán, hòa lẫn vào đó là một giọng nữ ngâm nga khúc đồng giao, thanh âm trong trẻo vang vọng núi rừng:
“Tân nương mới gả, tân nương mới gả…”
“Tân nương mới gả trên kiệu hoa trắng…”
“Dưới lớp khăn voan oan uất lệ…”
“Hướng đến tân lang vạn ngày trong…”
Không biết lời hát là từ hồn nữ nào, nhưng nghe ra thê lương réo rắt xé nát lòng người đến điên dại sợ hãi. Vô Thích thầm nghĩ nếu là trước kia nhìn thấy cảnh tượng này không biết cô sẽ kinh hãi, hay là không có cơ hội kinh hãi mà ngất xĩu mất tiêu.
Thấy kiệu hoa thay đổi hướng đi, chầm chậm hướng về phía mình, Vô Thích chợt nhớ đến câu chuyện khi sáng của đám người trong tửu lầu. Lẽ nào đây chính là u hồn của đoàn đưa dâu đã mất tích vào mười hai năm trước?
Con dao của Đồ Tô Huyền Cơ tự lúc nào đã rút ra mà cầm trên tay Vô Thích, cô vẫn âm thầm không đe dọa, vẫn im lặng dửng dưng nhìn đoàn đưa dâu trắng từng chút tiến về phía mình.
Kiệu hoa trắng dừng, nô tỳ tém lấy tấm màng trắng, một hồn nữ lặng lẽ bước ra. Đó là một hồn nữ mặc y phục tân nương màu trắng, đầu đội voan trắng che hết khuôn mặt, chậm rãi hướng về phía Vô Thích.
Vô Thích tay cầm con dao âm thầm cảnh giác nhưng không cảm thấy nguy hiểm nên không có hành động nào khác thường. Thấy cô dâu trắng tiến lại gần với mình, dừng bước, nhún người một cái hành lễ.
Hai đầu mày Vô Thích nâng cao hết mức, kinh ngạc đến tròn xoe hai con mắt, cô dâu trắng vậy mà lại hành lễ với cô. Chưa hết kinh ngạc, phía sau gần đó, đoàn u hồn trắng cũng chậm rãi quỳ gối hướng cô hành lễ.
Vô Thích nhìn cảnh tượng trước mắt, cười không được, khóc cũng không xong. Lần đầu tiên trong đời cô không phải nghe thấy mà chính là tận mắt nhìn thấy. U hồn quỳ gối hành lễ người sống. Thời đại này bị ngược rồi, đảo ngược cả rồi!
Sau khi thầm cười đến phát khóc xong, Vô Thích thu hồi nét mặt phóng khoáng, hơi nhuếch môi nhìn tân nương áo trắng, hỏi: “Các ngươi vì sao lại hành lễ trước ta? Ta đây còn sống, sợ không nhận nỗi cái đại lễ này.”
Bên trong tấm vải voan trắng, một giọng nói nương tựa theo cơn gió vang ra, trong trẻo, kéo dài, u khuất: “Ma Tôn!”
Vô Thích xoay người về sau, không có khác thường, không có con người, không có u hồn nào khác tồn tại. Cô dâu trắng kia gọi Ma Tôn, lại là gọi ai vậy chứ?”
Cô dâu trắng lại vang ra giọng nói âm lãnh: “Ma Tôn, xin hãy cứu vớt chúng tôi!”
Giọng nói vang dội khắp không gian trống vắng. Vô Thích ngây ngô một hồi mới phán đoán: “Ngươi gọi ta là Ma Tôn, ngươi vì sao lại nhìn ra ta thành Ma Tôn?”
Cô dâu trắng nói: “Ma Tôn, xin người đừng làm khó hồn nữ. Hồn nữ ở nơi đây đã đợi Ma Tôn suốt mười hai năm.”
Có nhầm lẫn gì không đây, cô bị nước cuốn trôi đến thời đại này chưa tới một năm, lôi đâu ra cô tồn tại ở trước kia mười hai năm mà cô dâu trắng này chờ đợi chứ? Nhưng Vô Thích cuối cùng vẫn tin rằng kẻ điều khiển nước đưa cô đến thời đại này, và kẻ điều khiển nước thảm sát cả một Hạn gia lớn mạnh chính là một người. Vậy nên chuyện này có chút can dự đến cô, cô tất nhiên sẽ nhún tay vào.
Vô Thích không muốn điều tra cô dâu trắng kia vì sao gọi cô là Ma Tôn, hẳn là nàng ta không biết gì có hỏi cũng bằng thừa. Vậy nên cô ngây ngơ thuận ý đồng tình với danh phận Ma Tôn, hỏi: “Ngươi đợi ta làm gì?”
Cô dâu trắng khẽ cất giọng âm vang: “Hồn nữ cùng đoàn đưa dâu chết oan, nguyện ý không muốn trả thù chỉ muốn hoàn thành di nguyện dang dỡ.”
Vô Thích hỏi: “Ngươi muốn đến nhà tân lang?”
Bên trong tấm voan trắng không vang ra giọng nói gì.
Vô Thích: “Có muộn không, đã là mười hai năm rồi?”
Mười hai năm nói ngắn không phải ngắn, nói dài không phải dài. Nếu đoàn đưa dâu và Hạn gia không xảy ra thảm án, hẳn hiện tại cô dâu trắng này cùng vị tân lang Hạn Dương kia cũng đã có tới hai ba đứa con.
“Đó là di nguyện của ta cùng đoàn đưa dâu phía sau, khẩn mong Ma Tôn toại ý!”
Vô Thích không hẹp hòi, nói: “Được, ta sẽ giúp ngươi!”
Cô dâu trắng nhún người: “Đa ta Ma Tôn!”
Vô Thích lười biến miễn cưỡng cười: “Nhưng ta không biết nhà của tân lang tử, Hạn gia kia ở xó xỉnh nào ta còn không biết.”
Bên trong tấm voan trắng vang ra giọng nói trong trẻo: “Chỉ cần Ma Tôn mở đường, dẫn đường đã có người khác lo liệu.”
Vô Thích gật gật đầu tán thành. Hóa ra trong suốt mười hai năm chờ đợi Ma Tôn kia xuất hiện chính là để mở đường cho u hồn oan khuất rời đi. Mười hai năm trước, đoàn đưa dâu có lẽ chết tại nơi đây, nên oan hồn chỉ có thể lẩn quẩn không rời đâu khác được.
Cô dâu trắng không lên kiệu ngồi, đi cùng Vô Thích. Trong khu rừng âm lãnh tĩnh mịch, một bóng dáng đen huyền dẫn đầu cả đội u hồn trắng xóa, tiếng gió vi vu lành lạnh, xít xao…
Vô Thích trầm lặng hồi lâu, hỏi: “Ngươi và tân lang cách biệt mười hai năm, ngươi không nghĩ gặp lại y không phải là một tân lang chờ đợi ngươi mà là một người đàn ông đã có vợ hiền con ngoan sao? Dù gì thời gian cũng đã quá lâu?”
Cô dâu trắng nói: “Ta chỉ cần từ xa nhìn chàng, không quấy rầy, không oán trách, nếu có thể, chỉ muốn nói với chàng một câu.”
“Là ta lỗi hẹn.”
Âm thanh giọng nói kia vẫn là hòa lẫn vào tiếng gió mà thi thoảng vang ra. Không hề khác biệt với những câu nói trước, nhưng nghe ra lại thiểu não lòng người. Vô Thích khẽ cất giọng: “Tình cảm trước kia của ngươi và Hạn Dương thế nào?”
Im lặng hồi lâu, âm thanh của cô dâu trắng vang ra không trung: “Chàng văn võ song toàn, ta cầm kì thi họa. Ngay từ lần đầu chạm mắt đã là si tâm tận can.”
“Chàng là con trai duy nhất của Hạn gia, gia tộc có họ hàng ruột thịt với tiên đế, chính vì không muốn can dự triều chính mà quy ẩn làm dân thường. Ta là con gái trưởng của Tô gia, Tô Yểm Thụy Du. Hai người bọn ta chính là thanh mai trúc mã, lại được chính tiên đế chiếu hôn, quả thật, người người ngưỡng mộ.”
Vô Thích như đã hiểu qua về quá khứ của cặp đôi bất hạnh kia, liền bám sát vấn đề cần hỏi: “Ai đã giết các ngươi?”
Hỏi đến vấn đề này, cô dâu trắng im lặng rất lâu, khắp người hơi run, hẵn là câm phẫn, một hồi thì lắc đầu, nói: “Kẻ tấn công quá nhanh, chỉ trong chớp nhoáng, ta cùng đoàn người chính là ở nơi vừa rồi gặp Ma Tôn mà chết không rõ ràng.”
Vô Thích đầu mày khẽ nhíu, nguyên nhân hay cảnh tượng vì sao lại chết vẫn không biết. Kẻ gây ra nguồn cội kia quả thật biết cách ẩn danh.