Thức dậy lúc bình minh trong ngôi nhà an toàn ảm đạm, Percey nhấc mình lên khỏi chiếc giường của cô và bước lại bên cửa sổ. Cô kéo rèm cửa qua một bên và ngước nhìn bầu trời nhuộm độc một màu xám xịt. Một làn sương mỏng mờ giăng trong không khí.
Xấp xỉ những thông số thời tiết tối thiểu, cô nhẩm đoán. Gió thổi với tốc độ năm knot một giờ. Tầm nhìn 1/4 dặm. Cô hy vọng tình hình thời tiết sẽ khá hơn cho chuyến bay đêm nay. Mà thật ra cô có thể bay trong bất kỳ điều kiện thời tiết nào – và thực tế là đã bay như thế. Bất kỳ ai có chứng chỉ IFR đều có thể cất cánh, bay và hạ cánh trong điều kiện thời tiết u ám nhất. (Trên thực tế, với các hệ thống máy vi tính, tiếp sóng radio, radar và thiết bị chống va chạm trên không, hầu hết các máy bay thương mại đều có thể bay tự động – ngay cả cài đặt việc cất cánh và hạ cánh không cần điều khiển.) Nhưng dù sao Percey cũng thích bay trong điều kiện thời tiết trong trẻo hơn. Cô muốn được nhìn thấy mặt đất lùi lại vun vút phía dưới cánh bay. Những ánh đèn trong đêm. Những đám mây. Và phía trên cô là bầu trời sao.
Tất cả những vì sao đêm…
Cô lại nghĩ đến Ed và cuộc điện thoại cho mẹ anh ở New Jersey tối hôm qua. Hai người đã sắp xếp buổi lễ tưởng niệm cho anh. Cô muốn suy nghĩ thêm về chuyện này, lên danh sách khách mời, chuẩn bị đón tiếp.
Nhưng cô không sao làm được. Tâm trí cô hoàn toàn chỉ hướng về Lincoln Rhyme.
Nhớ lại cuộc trò chuyện của hai người ngày hôm qua, đằng sau cánh cửa, trong phòng ngủ của anh – sau cuộc cãi vã căng thẳng với cô nàng sĩ quan Amelia Sachs kia.
Cô đã ngồi ngay cạnh Rhyme trong một chiếc ghế bành cũ kỹ. Anh chằm chằm nhìn cô hồi lâu, săm soi từng chút. Một cảm giác tò mò xâm chiếm lấy cô. Hoàn toàn không phải sự tò mò cá nhân – không phải kiểu mà cánh đàn ông vẫn hau háu nhìn một số phụ nữ (không phải cô, tất nhiên) trong những quán bar hoặc trên đường phố. Đó là cách một phi công lão luyện vẫn săm soi cô trước chuyến bay chung đầu tiên của hai người. Đánh giá khả năng, tính cách, sự quyết đoán của cô. Và thử thách cả lòng can đảm.
Lúc ấy cô đã rút chiếc chai bẹt từ trong túi áo ra nhưng Rhyme lắc đầu và mời cô dùng loại whiskey mười tám năm tuổi của anh. “Thom nghĩ là tôi uống nhiều quá”, anh nói. “Quả có thế thật. Nhưng sống mà không có những thú vui tội lỗi thì còn sống làm gì, phải vậy không?”
Cô uể oải cười khẽ. “Cha tôi là một người cung cấp chúng.”
“Các loại đồ uống? Hay thú vui tội lỗi nói chung.”
“Thuốc lá. Chủ tịch hội đồng quản trị Công ty Thuốc lá Mỹ ở Richmond. Xin lỗi, tôi quên mất. Họ không dùng tên đó từ lâu rồi. Bây giờ là Công ty Sản phẩm Tiêu dùng Mỹ, hay đại loại như thế.”
Có tiếng đập cánh phành phạch bên ngoài cửa sổ.
“Ôi.” Cô cười phá lên. “Đó là một con tiercel[73].”
Rhyme vẫn nhìn theo ánh mắt cô hướng ra ngoài cửa sổ. “Một con gì cơ?"
“Một con chim ưng đực. Tại sao tổ của nó lại ở dưới này nhỉ? Chim ưng vẫn thường làm tổ trên cao cơ mà.”
“Tôi không biết. Một buổi sáng tôi thức dậy và đã thấy chúng ở đó rồi. Cô biết rõ về chim ưng chứ?”
“Tất nhiên rồi.”
“Đã từng đi săn với chúng chưa?”, anh hỏi.
“Trước kia thì có. Tôi có một con chim ưng đực mà tôi dùng để đi săn gà gô. Tôi có nó từ hồi nó còn là một con chưa ra ràng[74].”
“Nghĩa là sao cơ?”
“Nghĩa là một con chim non còn chưa rời tổ. Như thế mới dễ huấn luyện.” Cô chăm chú xem xét chiếc tổ, một nụ cười thoáng hiện trên khuôn mặt. “Nhưng con chim săn tốt nhất của tôi lại là một con già hơn – một con chim ưng trưởng thành. Con chim cái. Chúng còn lớn hơn cả chim đực, đi săn cũng tốt hơn. Rất khó huấn luyện. Nhưng nó có thể săn bất kỳ thứ gì – thỏ rừng, thỏ nhà, gà lôi.”
“Cô vẫn còn nuôi nó chứ?”
“Ồ, không. Một hôm, nó đang chờ đợi – nghĩa là đang lượn lờ trên không, lùng kiếm con mồi. Rồi bỗng nhiên chẳng hiểu tại sao nó lại đổi ý. Để cho một con gà lôi béo múp chạy thoát. Nó bay vào giữa một luồng khí nóng đưa nó lên cao đến hàng trăm feet. Rồi cứ thế biến mất về phía mặt trời. Tôi để mồi nhử cả tháng liền nhưng nó không bao giờ quay lại.”
“Nó đột ngột biến mất vậy sao?”
“Đó là chuyện thường xảy ra với những con đã trưởng thành”, cô nói và nhún vai vẻ bất cần. “Chậc, dù sao chúng cũng là những con chim hoang dã. Nhưng chúng tôi đã có sáu tháng thật kỳ thú bên nhau.” Chính con chim ưng này là nguồn cảm hứng để cô nghĩ ra logo cho hãng Hudson Air. Hất đầu về phía cửa sổ. “Anh thật may mắn khi có những người bạn như thế này. Anh đã đặt tên cho chúng chưa?”
Chú thích
[73]Tiercel: Bản thân từ “tiercel” trong tiếng Anh đã là “chim ưng đực”, tiếng Việt không có từ tương đương nên người dịch để nguyên.
[74]Con chưa ra ràng: Nguyên văn là “A eyas”, nghĩa là chim non
Rhyme buột ra một tiếng cười chế giễu. “Đó không phải là điều tôi thích làm. Thom đã thử. Tôi cười khiến cậu ta đến phát ngượng.”
“Liệu cái cô sĩ quan Sachs ấy sẽ bắt giam tôi thật sao?”
“Ồ, tôi nghĩ tôi có thể thuyết phục cô ấy từ bỏ ý định đó. Mà quả thật tôi phải nói với cô chuyện này.”
“Anh cứ nói đi.”
“Có những lựa chọn mà hai người phải quyết định, cả cô và Hale. Đó là điều tôi đang muốn nói với cô.”
“Lựa chọn?”
“Chúng tôi có thể đưa hai người ra khỏi thành phố. Tới một cơ sở bảo vệ nhân chứng. Với những biện pháp đánh lạc hướng kỹ càng mà tôi dám chắc rằng chúng tôi có thể cắt đuôi được tên Vũ công và giữ cho hai người được an toàn cho đến khi bồi thẩm đoàn nhóm họp.”
“Nhưng?”, cô hỏi.
“Nhưng hắn sẽ bám theo hai người đến cùng. Và ngay cả sau phiên nhóm họp của bồi thẩm đoàn, hai người vẫn là mối đe dọa của Phillip Hansen bởi vì hai người còn phải ra tòa làm chứng. Mà việc đó thì phải vài tháng nữa mới bắt đầu.”
“Có thể bồi thẩm đoàn sẽ quyết định không truy tố hắn, cho dù chúng tôi có nói gì đi nữa”, Percey nêu ý kiến. “Nếu thế thì giết chúng tôi cũng chẳng để làm gì.”
“Điều đó không quan trọng. Một khi tên Vũ công đã được thuê giết ai đó, hắn sẽ không bao giờ dừng tay cho tới khi người đó chết. Hơn nữa, các công tố viên sẽ lại tìm cách truy tố Hansen vì đã giết hại chồng cô nên cô lại là nhân chứng trong vụ án. Hansen cần cô biến mất.”
“Có lẽ tôi hiểu anh đang định nói gì.”
Anh nhíu một bên mày.
“Con giun trên lưỡi câu”, cô nói.
Mắt anh hấp háy, và anh phá lên cười. “Ôi trời, tôi không định diễu cô đi giữa phố đông đâu mà sợ, chỉ là đưa hai người vào một ngôi nhà an toàn của liên bang ở ngay trong thành phố thôi. Có canh gác cẩn mật. Hệ thống an ninh tân tiến nhất. Nhưng chúng tôi sẽ bí mật đưa hai người vào đó và nằm im. Tên Vũ công sẽ thò mặt ra và chúng tôi tóm cổ hắn, một lần và mãi mãi. Đó là một ý tưởng điên rồ, nhưng tôi không nghĩ chúng ta còn sự lựa chọn nào khác.”
Lại thêm môt hớp whiskey. Cũng không tệ chút nào. Nhất là với một sản phẩm không được đóng chai ở Kentucky. “Điên ư?” Cô nhắc lại. “Hãy để tôi thử hỏi anh một câu này nhé. Anh có thần tượng không, thám tử? Ai đó anh ngưỡng mộ ấy?”
“Có chứ. Những chuyên gia hình sự học. August Vollmer, Edmond Locard.”
“Anh có biết Beryl Markham không?”
“Không.”
“Nữ phi công hồi thập niện ba mươi, bốn mươi. Bà ấy – chứ không phải Amelia Earhart – mới là thần tượng của tôi. Bà ấy sống một cuộc đời thật táo bạo. Xuất thân từ tầng lớp thượng lưu Anh. Kiểu người như trong phim Out of Africa[75] ấy. Bà ấy là người đầu tiên – không chỉ là người phụ nữ đầu tiên, mà là người đầu tiên – một mình bay qua Đại Tây Dương theo cách khó khăn nhất, từ đông sang tây. Lindberg[76] lại bay xuôi theo chiều gió.” Cô bật cười. “Tất cả đều nghĩ bà ấy thật điên rồ. Báo chí thi nhau đăng tải những bài xã luận cầu xin bà ấy từ bỏ ý định thực hiện chuyến bay. Nhưng bà ấy vẫn làm, tất nhiên.”
“Và thành công chứ?”
“Đâm xuống đất khi chưa tới sân bay, nhưng, vâng, bà ấy đã thành công. Hừm, tôi cũng không biết thế là dũng cảm hay điên rồ. Nhiều lúc tôi nghĩ hai cái đó cũng chẳng khác gì nhau.”
Rhyme nói tiếp. “Hai người sẽ được bảo đảm an toàn, nhưng khó có thể nói là an toàn tuyệt đối.”
“Để tôi nói với anh điều này nhé. Anh biết tên đáng sợ kia chứ? Cái tên mà các anh dùng để gọi hắn ấy?”
“Vũ công.”
“Vũ công Quan tài. Phù, trong nghề lái máy bay phản lực của chúng tôi cũng có một thuật ngữ. “Góc quan tài”.”
“Nghĩa là thế nào?”
“Đó là biên độ an toàn giữa tốc độ tròng trành của máy bay[77] và tốc độ khi máy bay rời khỏi trạng thái Mach[78] – khi anh đạt đến tốc độ âm thanh. Ở độ cao ngang với mực nước biển, tốc độ tròng trành của máy bay chỉ khoảng 200 dặm một giờ, nhưng ở độ cao 50000 hoặc 60000 feet, tốc độ tròng trành của máy bay có thể lên đến 500 knot một giờ và Mach buffet[79] vào khoảng 540. Nếu không ở nguyên trong biên độ 40 knot một giờ đó, coi như anh đã gặp rắc rối to. Bất kỳ máy bay nào bay cao đến mức đó cũng đều phải có máy lái tự động để duy trì tốc độ của mình ở trong biên độ an toàn. Hừm, phải nói thật là lần nào tôi cũng bay cao như vậy mà hầu như không bao giờ dùng đến máy lái tự động cả. An toàn tuyệt đối không phải là một khái niệm quen thuộc với tôi.”
“Nếu vậy có nghĩa là cô sẽ nhận lời?”
Nhưng Percey không trả lời ngay. Cô chăm chú nhìn anh hồi lâu. “Trong chuyện này còn có nhiều cái khác, đúng không?”
“Nhiều cái khác?” Rhyme hỏi, nhưng vẻ ngây thơ trong giọng anh mỏng tang như một lớp véc ni trên gỗ.
“Tôi cũng hay đọc mục Mero trên tờ Times. Không phải vụ án nào cũng khiến cảnh sát các anh huy động lực lượng rầm rộ như thế này. Hansen đã làm gì nào? Hắn giết chết hai, ba người lính và cả chồng tôi nữa, nhưng các anh đang lùng theo hắn như thể hắn là Al Capone[80] vậy”.
“Tôi quan tâm đếch gì đến Hansen”, Rhyme lặng lẽ thú nhận, anh ngồi như tượng trên chiếc ngai di động của mình, với một cơ thể bất động và đôi mắt rừng rực như hai đốm lửa đen, giống hệt đôi mắt con chim ưng cô đã từng nuôi. Cô không nói với Rhyme rằng bản thân cô, giống như anh, không bao giờ đặt tên cho một con chim săn mồi, rằng cô đã chỉ đơn giản gọi nó là “chim ưng”.
Rhyme nói tiếp. “Tôi muốn tóm được tên Vũ công. Hắn đã giết không biết bao nhiêu cảnh sát, trong đó có cả hai nhân viên dưới quyền tôi. Tôi sẽ tóm bằng được hắn.”
Mặc dù vậy, cô vẫn thấy còn điều gì đó anh chưa nói hết. Nhưng cô không gặng hỏi thêm. “Anh sẽ phải hỏi cả Brit nữa.”
“Tất nhiên.”
Cuối cùng, cô lên tiếng. “Được rồi, tôi sẽ nhận lời.”
“Cám ơn cô. Tôi…”
“Nhưng”, cô ngắt lời.
“Sao cơ?”
“Có một điều kiện.”
Chú thích
[75]Out of Africa: Bộ phim thực hiện năm 1985 dựa trên câu chuyện cùng tên về cuộc đời nữ nam tước Isak Dinesen, người phụ nữ thượng lưu từng sống ở Châu Phi.
[76]Charles Lindbergh (1902-1974): Phi công người Mỹ, người đầu tiên bay qua Đại Tây Dương.
[77]Tốc độ tròng trành của máy bay: Hay còn gọi là vận tốc thất tốc, tốc độ ở đó dòng không khí không thể giữ máy bay ở trên cao. Trong trạng thái này, máy bay thường đột ngột chúi mũi xuống và không còn phản ứng trước những thiết bị điều khiển động lực học.
[78]Mach: Đầy đủ là các thang số Mach, thuật ngữ hàng không chỉ các tốc độ của một vật thể bay so với vận tốc âm thanh. Mach 1 là tốc độ tương đương vận tốc âm thanh, Mach 2 là vận tốc gấp hai lần vận tốc âm thanh.
[79]Mach buffet: Thuật ngữ chỉ sự lắc lư của máy bay khi vượt chỉ số Mach tối đa, tức là vận tốc của máy bay so với vận tốc âm thanh tại một cao độ nhất định.
[80]Al Capone (1899-1947), biệt danh là “Mặt sẹo”, một trùm găngxtơ khét tiếng tại Chicago, Mỹ.
“Điều kiện gì vậy?” Rhyme cau mày, và một ý nghĩ bỗng chợt hiện lên trong đầu Percey: chỉ cần bạn không để ý đến thân thể tàn phế của anh, bạn sẽ nhận ra rằng anh mới đẹp trai làm sao. Và, quả đúng như vậy, một khi đã nhận ra điều đó, cô lại cảm thấy kẻ thù cũ của mình – cảm giác khép nép, nhỏ bé khi đứng trước mặt một người đàn ông đẹp trai. Ê, Mặt chú lùn, Mặt chó pug, Nấm lùn, Công chúa cóc, có hẹn hò gì tối thứ Bảy này không? Chắc là không rồi…
Percey nói, “Đó là tôi sẽ thực hiện chuyến bay cho Tập đoàn U.S. Medical đêm mai.”
“Ôi, tôi không nghĩ đó sẽ là một ý tưởng hay ho đâu.”
“Đó là điều mấu chốt cho thỏa thuận của chúng ta” cô nói, dùng nguyên cách nói mà Ron và Ed thỉnh thoảng vẫn dùng khi đàm phán hợp đồng.
“Tại sao cô phải bay chứ?”
“Hudson Air cần hợp đồng này. Đến mức tuyệt vọng. Đó là chuyến bay có lịch trình rất căng và chúng tôi cần phi công giỏi nhất trong công ty. Đó là tôi.”
“Ý cô là sao, lịch trình căng ấy?”
“Tất cả mọi chi tiết nhỏ nhất đều được lên kế hoạch rất sát sao. Chúng tôi sẽ bay với lượng nhiên liệu tối thiểu. Tôi không thể để một phi công khác mất thời gian bay lòng vòng vì anh ta chưa quen đường bay hoặc không dám bay trong những điều kiện thời tiết tối thiểu.” Cô ngừng lại một lát rồi nói thêm, “Tôi sẽ không bao giờ chịu để công ty của mình chìm xuống sông xuống biển”.
Percey đã nói những lời đó bằng một giọng cương quyết chẳng kém gì anh, nhưng cô thấy anh gật đầu không một chút phản đối. “Được rồi”, Rhyme nói. “Tôi đồng ý.”
“Coi như thỏa thuận vậy nhé.” Theo bản năng cô chìa tay ra định bắt tay anh nhưng kìm lại được.
Anh phá lên cười. “Dạo này tôi chỉ có thể thỏa thuận miệng thế thôi.” Hai người cùng nhấm nháp whiskey ăn mừng sự mặc cả vừa xong.
Giờ đây, trong buổi sáng Chủ nhật này, cô đang đứng dựa đầu lên mặt kính cửa sổ của ngôi nhà an toàn. Có quá nhiều việc cần phải làm. Sửa chữa lại chiếc Foxtrot Bravo. Chuẩn bị sổ nhật trình dẫn đường và kế hoạch bay không lưu – riêng việc này cũng đã mất vài giờ. Nhưng dù vậy, bất chấp sự bứt rứt trong cô lúc này, bất chấp nỗi đau của cô về Ed, cô vẫn cảm thấy một niềm vui không sao diễn tả nổi; đêm nay cô sẽ lại được bay.
“Ê này”, một giọng nói thân mật vang lên.
Cô quay lại và nhận ra Roland Bell ở ngưỡng cửa.
“Xin chào”, cô thốt lên.
Anh vội bước nhanh về phía trước. “Nếu đã mở rèm cửa ra như thế này thì tốt nhất cô nên cúi thấp đầu xuống như một đứa bé sơ sinh.” Anh kéo sập những tấm rèm cửa lại.
“Ôi. Tôi nghe nói thám tử Rhyme đang giăng lên một cái bẫy. Bảo đảm sẽ tóm được hắn.”
“Ồ, vâng, nghe nói là Lincoln Rhyme lần nào cũng đúng. Nhưng tôi đếch dám tin tên giết người lần này của chúng ta một chút nào. Cô ngủ ngon không?”
“Không”, cô nói. “Anh thì sao?”
“Mãi gần sáng tôi mới gật gù chợp mắt được vài tiếng”, Bell nói, đôi mắt tinh anh vẫn chăm chú quan sát ra bên ngoài qua lớp rèm cửa. “Nhưng tôi không cần ngủ nhiều lắm. Hầu như sáng nào cũng thức dậy với đủ thứ chuyện nhọc người. Cứ có con nhỏ rồi cô cũng thế thôi. Nào, giờ thì cô hãy để nguyên cái rèm cửa đóng lại như thế này. Nhớ nhé, đây là thành phố New York và hãy nghĩ tới những chuyện sẽ xảy ra đối với sự nghiệp của tôi nếu cô bị dính đạn lạc của một nhóm găngxtơ đang thanh toán nhau nào đó chẳng hạn. Nếu có chuyện như thế, yên tâm là kiểu gì tôi cũng phải cười méo mặt mất cả tuần. Nào, giờ thì làm chút cà phê chứ?”
Kia là những đám mây nặng nề phủ bóng lên khung cửa sổ căn nhà cũ kỹ sáng sớm ngày Chủ nhật.
Kia là bóng dáng một cơn mưa sắp ập xuống.
Kia là Người vợ đang đứng trong bồn tắm bên cửa sổ, khuôn mặt trắng bệch của cô ta được phủ dưới mái tóc ngắn và xoăn tít trông thật nhàu nhĩ vì vừa thức dậy.
Và kia là Stephen Kall, cách xa đúng một khối nhà tính từ ngôi nhà an toàn của Bộ Tư pháp trên phố Ba mươi lăm, đang nép mình trong bóng tối dưới một tháp nước trên nóc của một tòa nhà chung cư cũ, theo dõi mục tiêu của mình qua cặp ông nhòm Leica, hình ảnh phản chiếu của những đám mây chậm rãi trôi trên cơ thể gầy mảnh của cô ta.
Hắn biết chắc là cửa sổ được lắp bằng kính chống đạn và chắc chắn sẽ làm chệch phát súng đầu tiên. Hắn có thể bắn thêm phát thứ hai sau bốn giây, nhưng lúc đó cô ta đã kịp lùi lại phía sau theo phản xạ khi thấy kính cửa sổ vỡ vụn cho dù cô ta không hề biết là mình đang bị bắn. Có nhiều khả năng là hắn sẽ không có đủ thời gian thực hiện một phát súng có thể sát thương.
Thưa ngài, tôi sẽ giữ nguyên kế hoạch ban đầu, thưa ngài.
Một người đàn ông xuất hiện bên cạnh cô ta và tấm rèm cửa được kéo lại. Rồi khuôn mặt của anh ta nhòm qua khe hở, đôi mắt quét trên những nóc nhà theo logic thông thường sẽ được những tay bắn tỉa lựa chọn. Trông anh ta có vẻ rất có năng lực và nguy hiểm. Stephen thầm ghi nhớ trong đầu hình dáng của người đàn ông.
Và rồi hắn hụp đầu xuống phía sau mặt tiền của tòa nhà trước khi hắn bị phát hiện.
Thủ đoạn của bọn cảnh sát – hắn đoán đây là ý tưởng của Lincoln Con Giòi – qua việc đưa Người vợ và Người bạn vào tòa nhà trụ sở đồn cảnh sát trên mạn West Side đã không thể lừa được hắn quá mười phút. Sau khi nghe Người vợ và Ron nói chuyện điện thoại trên đường dây được cài máy nghe trộm, hắn chỉ cần cho chạy một chương trình phần mềm bất hợp pháp – một kiểu dịch vụ tổng đài 69[81] từ xa – mà hắn tải về từ một diễn đàn bẻ khóa trên Internet. Kết quả mà hắn tìm được là một số điện thoại có đầu 212. Mã khu vực Manhattan.
Bước tiếp theo mà hắn làm hoàn toàn chỉ là trò đánh liều may rủi.
Nhưng người ta giành chiến thắng bằng cách nào, quân nhân?
Bằng cách cân nhắc mọi khả năng, kể cả những khả năng tưởng như không thể, thưa ngài.
Hắn truy cập Internet và chỉ một lát sau đã bắt đầu gõ số điện thoại đó vào một danh bạ truy xuất ngược, cho phép hắn có thể tìm ra địa chỉ và tên của chủ thuê bao. Cách này thường không ăn thua với những số không có trong danh bạ và Stephen dám chắc rằng không ai trong chính quyền liên bang lại ngốc đến nổi sử dụng số điện thoại công khai cho một ngôi nhà an toàn.
Hắn đã nhầm.
Tên chủ thuê bao là James L. Johnson, 258 Phố Ba mươi lăm Đôngh iện lên trên màn hình.
Không thể thế được…
Sau đó hắn gọi tới Tòa nhà Liên bang Manhattan và yêu cầu được nói chuyện với ông Johnson. “Tên đầy đủ là James Johnson.”
“Xin giữ máy, tôi sẽ nối máy cho ông.”
“Khoan đã”, Stephen ngắt lời. “Xin hỏi lại là ông ấy làm ở bộ phận nào ấy nhỉ?”
“Đó là Bộ Tư pháp. Văn phòng Quản lý Công sản.”
Stepen gác máy trong khi cuộc gọi đang được chuyển tiếp.
Chú thích
[81]Tổng đài 69: Tại hầu hết các khu vực ở Mỹ, các công ty điện thoại thường có dịch vụ tổng đài *69. Nếu người sử dụng có một cuộc gọi nhỡ, hoặc nhận được cuộc gọi từ một người lạ, chỉ cần bấm số *69 trên điện thoại của mình, dịch vụ này sẽ cung cấp số điện thoại của người gọi đó.
Sau khi biết Người vợ và Người bạn đang ở trong một ngôi nhà an toàn trên phố Ba mươi lăm, hắn đã đánh cắp một số bản đồ hành chính của thành phố về khu vực này để lên kế hoạch tấn công. Rồi hắn đã làm ra vẻ đi loanh quanh tòa nhà trụ sở Đồn Cảnh sát Hai mươi trên khu West Side và để người ta nhìn thấy hắn đang theo dõi trạm xăng. Sau đó hắn lại ăn trộm một chiếc xe chở xăng và để lại phía sau vô số bằng chứng khiến bọn cảnh sát sẽ phải nghĩ rằng hắn đang sử dụng chiếc xe tải làm một quả bom xăng khổng lồ để thủ tiêu các nhân chứng.
Và giờ đây Stephen Kall đang ở đây, trong tầm bắn rất gần với Người vợ và Người bạn.
Suy nghĩ về phi vụ, cố gắng không nghĩ đến điều đi kèm rất hiển nhiên: khuôn mặt trên khung cửa sổ, chăm chú theo dõi hắn.
Một chút ghê sợ, không đến nỗi quá tệ. Một chút nhớp nhúa.
Rèm cửa đóng kín lại. Stephen lại chăm chú theo dõi ngôi nhà an toàn.
Đó là một ngôi nhà ba tầng đứng biệt lập với những tòa nhà xung quanh, con hẻm trông như một vệt dài tối om quanh công trình. Tường nhà được xây bằng đá hộc màu nâu – loại vật liệu xây dựng bền vững nhất ngoài đá hoa cương và đá granite nên không thể tính đến chuyện khoét tường hoặc cho nổ tung để đột nhập vào – các khung cửa sổ đều được gia cố thêm bằng những thanh trông như sắt lâu năm nhưng Stephen biết thừa rằng chúng đều là thép tôi cứng và kiểu gì cũng được gắn thêm những thiết bị cảm ứng theo dõi chuyển động hoặc âm thanh, hoặc cả hai.
Cầu thang thoát cháy là đồ thật, nhưng nếu quan sát kỹ sẽ nhận thấy là đằng sau các ô cửa sổ có rèm che đều là những khoang tối om. Có lẽ là thép tấm được gắn vào khung cửa phía trong. Hắn đã tìm thấy cửa thoát cháy thực sự – đằng sau một tấm áp phích quảng cáo phim dán trên tường gạch. (Làm gì có ai dán áp phích quảng cáo lên một con hẻm nếu như không phải là để ngụy trang cho một cánh cửa?) Bản thân con hẻm trông cũng bình thường như bất kỳ con hẻm nào trong khu trung tâm, lát đá và trải asphalt, nhưng hắn đã nhận ra con mắt trong suốt của những camera an ninh gắn chìm vào trong tường. Tuy nhiên, vẫn có những túi đựng rác và mấy thùng rác lớn trong con hẻm có thể dùng làm nơi che chắn khá lý tưởng. Hắn có thể trèo xuống con hẻm từ một ô cửa sổ trên tòa nhà văn phòng bên cạnh và sử dụng những thùng rác kia làm nơi ẩn mình để tiếp cận cửa thoát cháy.
Trên thực tế, có một cửa sổ để mở trên tầng một của tòa nhà văn phòng; một tấm rèm cửa bị gió lùa bay ra bay vào. Kẻ nào theo dõi những màn hình an ninh chắc hẳn cũng đã nhận ra chuyển động này và làm quen với với nó. Stephen có thể nhảy xuống qua cửa sổ này, cách mặt đất chỉ khoảng sáu feet, rồi lẩn mình đằng sau thùng rác và bò tới bên cửa thoát cháy.
Hắn cũng biết rằng bọn chúng không thể ngờ là hắn lại ở đây – hắn đã nghe được những báo cáo về việc sơ tán người ở trong tất cả các tòa nhà xung quanh Đồn Cảnh sát Hai mươi, có nghĩa là chúng đã thực sự tin rằng hắn đang tìm cách áp một quả bom xăng bằng xe téc vào tòa nhà.
Đánh giá tình hình đi, quân nhân.
Thưa ngài, theo nhận định của tôi thì kẻ thù đang phòng thủ dựa trên kết cấu vật chất và sự bí mật của khu vực này. Tôi nhận thấy ở đây không tập trung số lượng lớn các đặc vụ tác chiến chiến thuật và tôi rút ra kết luận rằng cuộc đột kích đơn lẻ vào căn cứ này có khả năng thành công rất lớn trong việc loại bỏ một hoặc cả hai mục tiêu, thưa ngài.
Tuy nhiên, dù có sự tự tin đến thế, hắn vẫn không khỏi cảm thấy một chút e sợ.
Hình dung ra Lincoln đang lùng sục bám theo hắn. Lincoln Con Giòi. Một sinh vật nhầy nhụa, béo múp, một thứ ấu trùng, người nhớp nháp thứ dầu trơn nhẫy của giòi, đang láo liên nhìn khắp mọi hướng, nhìn xuyên qua tường, len lỏi trườn bò qua những kẽ hở.
Nhòm qua những khung của sổ…
Lổm ngổm bò lên chân của hắn.
Gặm nhấm da thịt hắn.
Rửa trôi chúng đi. Rửa sạch chúng đi!
Rửa sạch cái gì đi, quân nhân? Anh vẫn còn đang lải nhải về những con giòi chết tiệt đấy à?
Thưa ngài, tôi đang… Thưa ngài, không ạ, thưa ngài.
Anh định chơi trò đàn bà với tôi đấy à, quân nhân? Anh có phải là một cô nữ sinh õng ẹo không đấy?
Thưa ngài, không ạ, thưa ngài. Tôi là một lưỡi dao, thưa ngài. Tôi là Thần Chết thuần khiết. Tôi có một khát khao giết người, thưa ngài!
Hít thật sâu. Từ từ trấn tĩnh lại.
Hắn giấu chiếc hộp đàn guitar chứa khẩu Model 40 trên mái nhà, dưới một tháp chứa nước bằng gỗ. Phần còn lại của khẩu súng được hắn chuyển hết sang một chiếc cặp sách lớn, rồi khoác lên mình chiếc áo gió in hàng chữ Đại học Columbia cùng chiếc mũ lưỡi trai của vận động viên bóng chày.
Hắn trèo xuống cầu thang thoát cháy và biến mất vào con hẻm, cảm thấy hổ thẹn, thậm chí là sợ hãi – không phải vì những viên đạn của kẻ thù mà vì ánh mắt soi mói đến bỏng rát của Lincoln Con Giòi, đang tiến lại gần hơn, lổm ngổn trườn bò chậm rãi nhưng tàn nhẫn khắp thành phố, lùng kiếm hắn.
Stephen cũng đã tính đến chuyện phải thủ tiêu bấy kỳ sự kháng cự nào khi đột nhập, nhưng cuối cùng hắn không phải giết một ai. Tòa nhà văn phòng bên cạnh ngôi nhà an toàn hóa ra trống không.
Sảnh chính vắng hoe và bên trong cũng không thấy có camera an ninh. Cửa chính được chèn để mở hé ra một chút bằng một cái chặn cửa cao su, qua khe cửa hắn nhìn thấy những đồ đạc cũ và cả xe đẩy xếp chồng phía sau. Trông thì thật hấp dẫn, nhưng hắn không muốn tình cờ chạm trán với một công nhân dọn đồ hay người thuê văn phòng nào đó, do vậy hắn lại bước ra ngoài và đi vòng qua góc tòa nhà, tách xa khỏi ngôi nhà an toàn. Hắn nép người sau một cây thông trồng trong chậu, nó giúp hắn không bị phát hiện từ phía hè phố. Rồi hắn dùng khuỷu tay thúc vỡ cửa sổ hẹp dẫn vào một văn phòng tối om – hóa ra là văn phòng của một bác sĩ tâm thần – và chui vào trong. Hắn đứng hoàn toàn bất động suốt năm phút liền, khẩu súng ngắn trong tay. Không có gì. Sau đó hắn khẽ khàng lẻn ra qua cửa chính và bước ra hành lang tầng một của tòa nhà.
Hắn dừng lại bên ngoài một văn phòng mà hắn tin chính là văn phòng có cửa sổ trổ ra con hẻm – cái cửa sổ với tấm rèm bị gió lùa. Stephen với tay về phía tay nắm cửa.
Nhưng bản năng bỗng nhiên thúc giục hắn thay đổi kế hoạch. Hắn quyết định thử bằng lối dưới tầng hầm. Hắn tìm thấy cầu thang và chui người xuống mê cung mốc meo của những căn phòng dưới tầng hầm.
Stephen lặng lẽ lần tìm đường đi về phía hông của tòa nhà gần nhất với ngôi nhà an toàn và đẩy mở một cánh cửa bằng thép. Hắn bước vào một căn phòng tranh tối tranh sáng rộng khoảng gần 40 mét vuông chất cơ man nào là thùng, hộp và đồ gia dụng cũ. Hắn tìm thấy một cái cửa sổ cao ngang đầu người mở thẳng ra con hẻm.
Ô cửa sổ này chật cứng. Hắn sẽ phải tháo bỏ tấm kính và khung gỗ. Nhưng chỉ cần chui được ra ngoài hắn sẽ lẻn thẳng tới phía sau những túi rác kia, rồi bằng kỹ thuật bò trườn của một tay súng bắn tỉa hắn sẽ tới được cửa thoát cháy của ngôi nhà an toàn. An toàn hơn rất nhiều so với cái cửa sổ trên tầng.
Stephen tự nhủ: Mình đã làm được.
Hắn đã đánh lừa tất cả bọn chúng.
Dắt mũi được Lincoln Con Giòi! Điều đó khiến hắn cảm thấy sung sướng không kém gì cảm giác giết được nốt hai nạn nhân còn lại.
Hắn lấy trong cặp sách của mình một chiếc tuốc nơ vít và bắt đầu cạy lớp mát tít trét kính ra khỏi khung cửa sổ. Lớp mát tít xám xịt từ từ bong ra và hắn mải mê với công việc của mình đến nỗi khi hắn thả rơi chiếc tuốc nơ vít xuống và chụp lấy báng khẩu Beretta của mình, thì người đàn ông kia đã lù lù đứng ngay phía trên hắn, gí một khẩu súng vào sau gáy Stephen và nói với hắn bằng một giọng thì thào, “Chỉ cần nhúc nhích một inch thôi là coi như mày tiêu luôn”.