“Tôi nghĩ là anh nhầm rồi, Lincoln”, Lon Sellitto nói. "Chúng ta phải cho di chuyển họ. Kiểu gì hắn cũng sẽ tấn công vào ngôi nhà an toàn lần nữa, nếu chúng ta cứ để họ ở đó.”
Họ không phải là hai người duy nhất đang tính toán tình thế tiến thoái lưỡng nan này. Công tố viên Reg Eliopolos không có mặt – chỉ là chưa thôi – nhưng đích thân Thomas Perkins, đặc vụ FBI phụ trách Văn phòng Địa bàn Manhattan, đang ở đây, đại diện cho phía chính quyền liên bang trong vụ tranh cãi này. Rhyme ước giá như Dellray đang ở đây – và cả Sachs nữa, mặc dù lúc này cô đang cùng với lực lượng chiến thuật hỗn hợp của thành phố và liên bang lùng sục trong những điểm đường tàu điện ngầm bỏ không. Cho tới thời điểm này họ chưa tìm thấy dấu vết gì của tên Vũ công hoặc đồng bọn của hắn.
“Trong tình hình như hiện nay, quan điểm của tôi là chúng ta phải hoàn toàn nắm quyền chủ động”, Perskin nói chắc như đinh đóng cột. “Chúng tôi vẫn còn những cơ sở bảo vệ khác." Anh ta bàng hoàng khi biết rằng tên Vũ công chỉ mất có đúng tám tiếng đồng hồ để phát hiện ra các nhân chứng đang được giấu ở đâu và tiếp cận cửa thoát cháy đã được ngụy trang của ngôi nhà an toàn chưa đầy năm mét. “Những cơ sở bảo vệ tốt hơn”, anh ta vội vàng bổ sung. “Tôi nghĩ chúng ta phải tiến hành di chuyển họ ngay lập tức. Tôi vừa nhận được chỉ thị từ cấp trên. Từ chính Washington. Họ yêu cầu các nhân chứng phải được bảo đảm an toàn tuyệt đối.”
Có nghĩa là, Rhyme thầm nghĩ, di chuyển họ và di chuyển họ ngay lập tức.
“Không”, anh nói một cách dứt khoát. “Chúng ta phải để họ ở đúng nơi họ đang ở lúc này.”
“Trên cơ sở phân tích tình hình”, Perkins nói, “tôi nghĩ câu trả lời đã quá rõ ràng. Chuyển họ đi”.
Nhưng Rhyme nói, “Hắn sẽ bám theo họ cho dù họ có ở đâu chăng nữa, một ngôi nhà an toàn khác hay ngôi nhà an toàn hiện tại cũng vậy thôi. Nếu ở nguyên chỗ cũ chúng ta còn biết rõ địa bàn, chúng ta cũng biết đôi chút về phương thức ra tay của hắn. Chúng ta còn có địa hình tốt để che chắn lực lượng mai phuc".
“Đó là một điểm quan trọng thật”, Sellitto thừa nhận.
“Và làm như thế lại còn khiến hắn bất ngờ và bị động.”
“Tại sao lại thế?” Perkins hỏi.
“Ngay lúc này hắn cũng đang phải căng đầu suy đoán, anh biết đấy.”
“Thật thế sao?”
“Ôi, chắc chắn rồi”, Rhyme nói. “Hắn đang phải cố tìm hiểu xem chúng ta chuẩn bị hành động như thế nào. Nếu chúng ta quyết định giữ họ ở nguyên chỗ họ đang ở hiện nay, hắn sẽ hành động theo một kiểu. Nếu chúng ta di chuyển họ – mà đây là điều tôi nghĩ hắn đoán chúng ta sẽ làm – hắn sẽ cố thực hiện một vụ tấn công ngay trên đường. Và cho dù công tác bảo đảm an ninh trên đường có tốt đến đâu chăng nữa, bao giờ nó cũng tệ hơn là bảo vệ một mục tiêu cố đỉnh. Không, chúng ta phải giữ họ ở chỗ hiện tại và chuẩn bị sẵn sàng cho cú tấn công tiếp theo. Lường trước các tình huống và sẵn sàng buông lưới. Lần cuối cùng...”
“Lần cuối cùng một đặc vụ đã bị giết đấy thôi.”
Rhyme quát thẳng vào mặt tay đặc vụ chỉ huy Văn phòng Địa bàn, “Nếu như Innelman có người yểm trợ, mọi chuyện đã hoàn toàn khác”.
Perkins với bộ com lê bảnh chọe là một tay quan liêu lúc nào cũng lo giữ ghế, nhưng dù sao cũng là một người biết điều. Anh ta gật đầu thừa nhận.
Nhưng liệu mình có đúng không? Rhyme tự hỏi.
Tên Vũ công đang nghĩ gì lúc này? Mình có thực sự biết không nhỉ?
Ôi, mình có thể liếc qua một phòng ngủ yên tĩnh hoặc một con hẻm hôi hám và kể lại hoàn toàn chính xác câu chuyện đã biến chúng thành những hiện trường vụ án như thế nào. Chỉ cần nhìn qua vết máu bết lại trên mặt thảm hoặc chảy ra trên nền gạch là mình có thể thấy nạn nhân suýt nữa đã thoát chết như thế nào hoặc anh ta đã có một cơ hội mong manh ra sao, ngay cả việc anh ta phải chịu đựng một cái chết như thế nào. Mình chỉ cần nhìn qua những hạt bụi tên sát nhân bỏ lại trên hiện trường và ngay lập tức biết hắn từ đâu đến.
Mình có thể trả lời là ai, mình có thể trả lời là tại sao.
Nhưng tên Vũ công đang chuẩn bị làm gì?
Đó là điều mình chỉ có thể đoán nhưng không thể nào nói chắc chắn được.
Một bóng người hiện ra ở ngưỡng cửa, một trong những nhân viên cảnh sát bảo vệ cửa trước. Anh ta chìa cho Thom một chiếc phong bì rồi trở lại vị trí đứng gác của mình.
“Cái gì vậy?”, Rhyme nhìn chằm chằm chiếc phong bì với vẻ cảnh giác. Lúc này anh không chờ đợi một báo cáo từ phòng thí nghiệm nào và lại càng có lý do phải đề phòng trước sở thích đánh bom của tên Vũ công. Tuy vậy, chiếc phong bì chỉ mỏng đúng bằng một tờ giấy, và là do FBI gửi đến.
Thom mở phong bì ra và đọc.
“Thư của PERT gửi tới. Họ tìm được một chuyên gia về cát.”
Rhyme giải thích cho Perkins hiểu, “Nó không liên quan gì đến vụ này. Đây là người đặc vụ đã mất tích đêm hôm trước.”
“Tony ư?” Viên chỉ huy Văn phòng địa bàn hỏi. “Từ đó đến giờ chúng tôi cũng chưa có thêm manh mối nào.”
Rhyme liếc qua bản báo cáo.
Về mặt kĩ thuật thì mẫu vật được gửi tới phân tích cũng không hẳn là cát. Nó là một mẩu vụn sau hô từ những rạn sau hô ngầm dưới biển và có chứa những gai nhỏ, cả dấu cắt ngang xúc tu của những con giun biển, vỏ các loại chân bụng và trùng có lỗ. Nhiều khả năng là những mẩu vụn san hô này có nguồn gốc từ phía bắc khu vực Caribbe: Cuba hoặc Bahamas.
Caribbe à... Thú vị thật. Hừ, trước mắt chắc anh sẽ phải để bằng chứng này lại. Sau khi tên Vũ công đã bị tóm cổ và bị tống vào tù, anh và Sachs sẽ quay lại...
Tai nghe của anh bỗng rung lên.
“Rhyme, anh có đấy không?”, giọng Sachs vang lên.
“Có! Cô đang ở đâu vậy, Sachs? Cô tìm thấy những gì rồi?”
“Chúng tôi đang ở bên ngoài một ga tàu điện ngầm cũ gần Tòa thị chính. Tất cả đã được niêm phong kín. S&S cho biết bên trong có người. Ít nhất là một người, có thể là hai.”
“Được rồi, Sachs”, anh nói, tim đập dồn dập với ý nghĩ rất có thể họ đang ở rất gần tên Vũ công. “Nhớ báo cáo lại.” Rồi anh ngước lên nhìn Sellitto và Perkins. “Có vẻ như rốt cuộc chúng ta sẽ không phải phân vân về việc có di chuyển họ ra khỏi ngôi nhà an toàn nữa hay không.”
“Họ tìm được hắn rồi à?” Viên thám tử hỏi.
Nhưng nhà hình sự học – và trên hết là một nhà khoa học – nhất định không muốn tỏ ra lạc quan. Anh chỉ sợ mình sẽ mang lại xúi quẩy cho cả chiến dịch – hừm, mà chính xác là xúi quẩy cho Sachs, người anh đang nghĩ đến lúc này. Thay vào đó anh chỉ làu bàu, “Cũng chỉ còn biết hy vọng thế thôi”.
Những cảnh sát vũ trang thuộc ESU lặng lẽ bao vây ga tàu điện ngầm.
Có lẽ đây chính là nơi tên đồng bọn mới của Vũ công đang sống, Amelia Sachs kết luận. S&S đã tìm thấy vài người dân địa phương và họ cho biết có một tên nghiện chuyên bán thuốc quanh khu này. Hắn có vóc người nhỏ bé – rất khớp với một đôi giày cỡ tám.
Nhà ga là một cái lỗ khoét sâu vào vách đường hầm, gần như đúng theo nghĩa đen. Cách đây nhiều năm nó đã được thay thế bằng một điểm đỗ khác sang trọng hơn nằm cách đó vài khối nhà phục vụ những hành khách cần xuống Tòa thị chính.
Người chỉ huy kéo Sachs ra khỏi lối vào chính, tránh xa làn hỏa lực. Họ giao cho cô nhiệm vụ đáng hổ thẹn là cảnh giới một lối vào ga tàu điện ngầm đã được niêm phong kín bằng những thanh giằng sắt và khóa móc từ bao năm nay. Cô không thể không tự hỏi phải chăng Rhyme đã có thỏa thuận trước với Haumann về việc bảo đảm cho cô được an toàn. Nỗi giận dữ của cô từ đêm hôm trước, vốn tạm chìm đi trong lúc truy lùng tên Vũ công, giờ đây lại bùng lên.
Sachs hất đầu về phía ổ khóa hoen gỉ. “Hừm. Có lẽ hắn sẽ không trốn ra ngoài theo đường này đâu”, trước đó cô đã sốt sắng nhận xét.
“Phải cảnh giới tất cả đường ra vào”, tay sĩ quan chỉ huy ESU mang mặt nạ kín mít càu nhàu, không nhận ra hoặc cố tình phớt lờ sự châm biếm của cô, rồi quay lại với những đồng đội của mình.
Mưa đổ xuống quanh cô, một trận mưa lạnh buốt, trút thẳng xuống từ bầu trời xám xịt, bẩn thỉu, quất rát rạt vào kẻ bị ruồng bỏ đang đứng chết lặng trước những thanh giằng sắt.
Tên Vũ công có ở bên trong không? Nếu có, hẳn sẽ xảy ra một trận đọ súng. Chắc chắn rồi. Cô không thể nào hình dung ra cảnh hắn lại chịu đầu hàng mà không chống cự quyết liệt.
Và điều khiến cô căm tức nhất là cô sẽ không được tham dự vào chuyện này.
Mày là một con rắn độc nguy hiểm khi mày có khẩu súng trường trên tay và khoảng cách 1/4 dặm để che chắn, cô thầm nói với tên sát thủ. Nhưng thử nói cho tao nghe xem, đồ chó chết. mày ngon đến cỡ nào khi chỉ có một khẩu súng ngắn ở cự li gần? Khi ấy mày có dám đối đầu với tao không? Trên bệ lò sưởi ở nhà cô là cả chục chiếc cúp mạ vàng hình những xạ thủ đang giương súng bắn. (Tất cả người mẫu của những chiếc cúp đều là đàn ông, điều này lại càng khiến Sachs thêm khoái trá.)
Cô bước tiếp xuống bậc thang, tới những thanh sắt giằng, rồi đứng nép sát người vào tường.
Sachs, nhà hình sự học bẩm sinh, chăm chú kiểm tra cái chỗ bẩn thỉu đó một cách thật kỹ càng, gí mũi ngửi mùi rác rưởi, mùi mục nát, nước đái, mùi mằn mặn của đường hầm. Cô kiểm tra những thanh giằng, sợi dây xích và ổ khóa móc. Cô nhòm vào trong đường hầm tối om nhưng không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì.
Hắn đang ở đâu?
Và những cảnh sát và đặc vụ kia đang làm gì vậy nhỉ? Tại sao họ lại chùng chình thế?
Vài giây sau cô nghe thấy câu trả lời qua tai nghe của mình: họ đang chờ lực lượng yểm trợ. Haumann đã quyết định huy động thêm hai mươi nhân viên ESU và đội 32-E thứ hai.
Không, không, không, cô nghĩ. Tất cả chuyện này là một sai lầm! Tất cả những gì tên Vũ công phải làm là nhòm ra đường và sẽ thấy ngay rằng không một chiếc xe hay một chiếc taxi hoặc một khách bộ hành nào đi qua và trong nháy mắt hắn sẽ biết là có một cuộc tấn công chiến thuật đang được thực hiện. Sẽ có một cuộc tắm máu... Chẳng lẽ họ không hiểu điểu đó sao?
Sachs đặt hộp dụng cụ khám nghiệm hiện trường ở chân cầu thang và trèo ngược lại lên mặt phố. Cách đó vài cánh cửa là một hiệu thuốc. Cô vào trong. Cô mua hai bình butane to rồi mượn luôn chiếc sào chống mái hiên bằng vải bạt của người bán hàng – một thanh thép dài đến năm feet.
Quay lại lối ra của ga tàu điện ngầm vẫn được khóa kín, Sachs luồn thanh sào đấy vào qua một mắt xích căng hết cỡ. Cô xỏ một chiếc găng Nomex rồi dốc hết những gì có trong hai chiếc bình butane lên sợi xích sắt, chăm chú nhìn nó sùi lên như được phủ một lớp sương giá dưới tác dụng của loại khí gas lạnh buốt. (Amelia Sachs đã không làm cảnh sát tuần tra đến mòn cả lốp xe ở phố Decue trong Quảng trường Thời đại – tên cũ của phố Bốn mươi hai – một cách hoài công vô ích; cô biết quá rõ về những trò phá khóa và đột nhập, thừa đủ để lấy đó làm cái nghề thứ hai cho mình.)
Sau khi bình butane thứ hai đã được đổ hết ra ngoài, cô nắm chặt thanh sắt bằng cả hai tay và bắt đầu xoắn mạnh. Khí gas lạnh buốt đã khiến mắt xích sắt trở nên rất giòn. Với một tiếng cách rất khẽ, mắt xích đã vỡ ra làm hai mảnh. Cô bắt lấy lấy sợi xích trước khi nó kịp rơi xuống chạm mặt đất, rồi nhẹ nhàng đặt nó xuống một đống lá khô.
Những tấm bản lề còn ướt sũng nước mưa nhưng cô vẫn thận trọng nhổ thêm nước bọt vào đó để chúng không rít lên ken két. Cô đẩy cửa vào trong, rút phắt khẩu Glock của mình ra khỏi bao, lúc này trong đầu chỉ còn ý nghĩ: tao bắn trượt mày ở khoảng cách gần 100 thước. 30 thước thì đừng hòng nhé.
Rhyme sẽ không đời nào ủng hộ chuyện này, tất nhiên rồi, nhưng Rhyme làm sao mà biết được. Cô thoáng nghĩ đến anh, đến đêm hôm qua, lúc nằm trên giường anh. Nhưng hình ảnh khuôn mặt anh vụt biến mất rất nhạnh. Cũng giống như lái xe với vận tốc 150 dặm một giờ, nhiệm vụ của Sachs lúc này không còn thời gian để khóc lóc thở than cho cuộc sống riêng tư đầy bất hạnh của mình.
Sachs biến mất vào trong hành lang nhập nhoạng tối, nhảy qua cánh cửa quay bằng gỗ cổ kính, rồi bắt đầu đi dọc theo sân chờ về phía nhà ga.
Cô nghe thấy những giọng nói vang lên khi cô mới đi được chưa đến 20 feet.
“Tao phải đi rồi... mày có hiểu... tao nói gì không hả? Biến đi.”
Da trắng, đàn ông.
Liệu có phải là tên Vũ công không?
Tim cô đập thình thịch trong lồng ngực.
Thở thật chậm, cô tự trấn an mình. Thở bình tĩnh thì bắn mới chuẩn xác.
(Nhưng cô đã không thể thở chậm lúc ở sân bay. Cô đã thở hổn hển vì sợ hãi.)
“Mày, mày nói cái quái gì hả?” Một giọng khác vang lên. Da đen, đàn ông. Có gì đó trong giọng nói làm cô sởn da gà. Điều gì đó thật nguy hiểm. “Tao có thể kiếm thêm tiền. Tao có thể. Tao có thể kiếm thêm được hàng đống tiền. Tao có sáu mươi đô la, tao bảo mày thế rồi cơ mà? Nhưng tao vẫn còn kiếm được nhiều hơn thế. Mày muốn bao nhiêu tao trả bấy nhiêu. Tao từng có một công việc tử tế. Lũ chó má đã cướp của tao. Chỉ vì tao biết quá nhiều.”
Vũ khí đơn giản chỉ là sự nối dài của cánh tay. Hãy ngắm bằng toàn bộ con người cô, đừng có ngắm bằng khẩu súng không thôi.
(Nhưng lúc cô ở sân bay cô đã không hề ngắm nghía chút nào. Cô đã nằm bẹp xuống đất như một con thỏ đang khiếp đảm, bắn loạn xạ như một người mù – những hành động vô ích và nguy hiểm nhất với một khẩu súng trên tay.)
“Mày có hiểu tao nói gì không? Tao đổi ý rồi, được chưa? Cứ để mặc tao... mày chỉ cần biến đi. Tao sẽ cho mày... deie.”
“Mày nhất định không chịu nói chúng ta sẽ đi đâu phải không. Chỗ mà mày bảo chúng ta sẽ tới là chỗ nào? Mày phải cho tao biết trước đã. Ở đâu? Nói ngay không thì bảo.”
“Mày sẽ không phải tới đâu hết. Tao chỉ muốn mày biến đi.”
Sachs bắt đầu chậm rãi bước lên cầu thang.
Suy nghĩ: Ngắm bắn, kiểm tra phía sau mình, bắn nhanh ba phát. Quay về nơi ẩn nấp. Ngắm bắn, bắn thêm ba phát nữa nếu cần thiết. Lại nấp. Đừng có sợ hãi.
(Nhưng lúc ở sân bay cô đã sợ hãi. Phát súng khủng khiếp đó bay sượt qua mặt cô...)
Quên nó đi. Tập trung vào.
Bước thêm vài bậc nữa.
“Và bây giờ thì mày định bảo tao là tao sẽ không được cho không nữa phỏng? Giờ mày định bảo là tao sẽ phải trả tiền đúng không? Thằng chó chết này!”
Cầu thang là những nơi tồi tệ nhất. Đầu gối, điểm yếu của cô. Căn bệnh thấp khớp chết tiệt.
“Đây. Cả một tá deie đây nhé. Cầm lấy và biến đi!”
“Một tá. Và tao không phải trả tiền cho mày sao?” Hắn cười the thé. “Một tá à?”
Tiến sát đến đỉnh cầu thang.
Cô gần như đã có thể nhòm thẳng vào nhà ga. Cô đã sẵn sàng nổ súng. Chỉ cần hắn nhúc nhích về bất kỳ phía nào quá sáu inch, cô gái, hãy hạ hắn ngay. Quên hết những quy định kia đi. Ba phát vào đầu. Pọp, pọp, pọp. Quên chuyện bắn vào ngực đi. Quên...
Bất thình lình những bậc thang biến mất.
“Ợ ợ...” Một tiếng rên khản đục trong cổ họng Sachs bật ra khi cô ngã xuống.
Bậc thang mà cô đã đặt chân lên hóa ra là một cái bẫy. Ván đứng giữa hai bậc thang đã được bỏ đi và mặt bậc thang trên cùng được đỡ hoàn toàn trên hai cái hộp giày. Chúng đổ sụp xuống dưới sức nặng của cô và tấm bê tông trượt thẳng xuống khiến cô mất đà ngã ngửa xuống cầu thang. Khẩu Glock bay ra khỏi tay Sachs khi cô cố hét lên “Cấp cứu!”, cô chợt nhận ra sợi dây nối tai nghe của cô với chiếc Motorola đã bị giật đứt tung ra khỏi máy bộ đàm.
Sachs ngã đánh huỵch một cái xuống thẳng chiếu nghỉ cầu thang bằng thép và bê tông. Đầu cô đập vào một cây cột đỡ hàng tay vịn. Cô lăn người, nằm sấp bụng, choáng váng.
“Ôi, tuyệt chưa này”, giọng người đàn ông da trắng vọng từ trên đầu bậc thang xuống.
“Cái chết mẹ gì thế?” Giọng gã da đen hỏi.
Cô cố ngóc đầu lên và mờ mờ nhận ra hai người đàn ông đứng trên đỉnh bậc thang, đang chăm chú nhìn cô.
“Mẹ kiếp”, gã da đen chửi rủa. “Mẹ kiếp. Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra ở đây vậy?”
Gã da trắng chộp lấy một cây gậy bóng chày và bắt đầu đi xuống cầu thang.
Mình chết rồi, cô thầm nghĩ. Mình chết rồi.
Con dao bấm nằm trong túi áo cô. Phải dồn hết chút năng lượng còn lại trong người cô mới rút được cánh tay phải đang bị đè bên dưới ra. Cô lăn người nằm ngửa lại, thò tay xuống lấy con dao. Nhưng đã quá muộn. Gã đã đứng đè lên cánh tay cô, chặn nó dính chặt xuống đất, gã gườm gườm nhìn cô.
Ôi, trời ơi, Rhyme, em làm hỏng việc mất rồi. Giá kể chúng ta đã có một đêm vĩnh biệt tuyệt vời hơn… em xin lỗi… em xin lỗi…
Cô cố giơ hai tay lên phòng thủ để đỡ cú đá vào đầu mình, rồi liếc tìm khẩu Glock. Nó nằm cách đó quá xa.
Với một bàn tay gầy nhằng nhưng lại cứng như vuốt chim, người đàn ông bé choắt giằng lấy con dao ra khỏi túi cô. Hắn lẳng nó ra xa.
Rồi hắn đứng thẳng lên và nắm chặt cây gậy.
Bố, cô nói với người cha đã qua đời của mình, tại sao lần này con lại làm hỏng việc đến thế nhỉ? Con đã phá bỏ bao nhiêu quy định vậy? Cô chợt nhớ ông đã từng bảo cô rằng trên đường phố chỉ cần sơ sểnh một giây thôi là coi như xong đời.
“Nào, mày sẽ phải nói cho tao biết mày đang làm gì ở đây”, hắn gầm ghè, tay vung vẩy chiếc gậy một cách lơ đễnh, như thể hắn chưa quyết định được là phải đập vỡ cái gì trước. “Mày là đứa chó chết nào?”
“Tên cô ấy là Cô Amelia Sachs”, gã da đen vô gia cư lên tiếng, nhưng lần này giọng gã bỗng nhiên nghe không còn chút gì là vô gia cư. Gã bước xuống khỏi cầu thang và áp sát người đàn ông da trắng trong tích tắc, hất tung cây gậy bóng chày ra xa. “Và nếu như tao không nhầm thì cô ấy tới đây để tóm cổ mày đấy, anh bạn của tao ạ. Cũng giống tao thôi.” Sachs hấp háy mắt để rồi nhận ra gã vô gia cư đã đứng thẳng dậy và biến thành Fred Dellray. Anh đang chĩa một khẩu súng ngắn Sig-Sauer tự động to bự vào người đàn ông đang bàng hoàng không nói lên lời.
“Mày là cớm à?”, gã lắp bắp.
“FBI.”
“Chó chết!”, gã gầm lên, nhắm nghiền mắt lại vì kinh hoàng. “Thật đúng là vận may khốn khiếp của tao.”
“Không”, Dellray. “May mắn chẳng liên quan đếch gì dến chuyện này cả. Nào, giờ thì tao sẽ phải còng tay mày lại và mày sẽ phải để yên cho tao làm. Nếu mày chống cự, mày sẽ bị đau nhiều tháng và rất nhiều tháng đấy. Chúng ta thỏa thuận như thế chứ?”
“Làm sao anh làm được như thế, Fred?”
“Dễ ợt mà”, tay đặc vụ FBI cao lòng khòng nói với Sachs khi hai người cùng đứng trước nhà ga tàu điện ngầm bỏ hoang. Anh vẫn mặc quần áo của gã vô gia cư và bốc mùi hôi hám với bùn đất bẩn mà anh đã trát lên mặt, tay chân để cho giống với một kẻ đã sống lê la trên phố suốt nhiều tuần. “Rhyme có nói cho tôi biết việc đồng bọn của Vũ công là một tên nghiện ma túy và sống đâu đó trong đường tàu điện ngầm mạn trung tâm. Nghe thế là tôi biết phải tìm ở đâu. Mua một túi vỏ lon và nói chuyện với những kẻ mà tôi biết là tôi cần phải nói chuyện. Dò hỏi mãi mới tìm được đường mò tới cái phòng khách này.” Anh hất đầu về phía ga tàu điện ngầm. Họ liếc nhìn về phía một chiếc xe tuần tra của cảnh sát, Jodie đang ngồi ở băng ghế sau, tay bị còng trông rất thảm hại.
“Tại sao anh không cho chúng tôi biết anh định làm gì?”
Câu trả lời của Dellray là một tràng cười và Sachs biết câu hỏi của cô thật vô ích; những cảnh sát ngầm hiếm khi kể cho bất kỳ ai – kể cả những đồng nghiệp, và nhất là cấp trên của mình – những gì họ đang làm. Nick, bạn trai cũ của cô, cũng là một cảnh sát ngầm và có không biết bao nhiêu chuyện chết tiệt mà anh đã giấu cô.
Sachs xoa xoa bên sườn, nơi bị đập xuống đất khi cô ngã. Vết dập đau điếng, và tay nhân viên y tế đã bảo cô nên đi chụp X-quang. Sachs vươn tay lên và bóp chặt vào bắp tay Dellray. Xưa nay bao giờ cô cũng cảm thấy khó chịu khi nhận lòng biết ơn của người khác – ở điểm này thì cô thực sự là học trò của Lincoln Rhyme – nhưng lúc này đây cô thốt lên rất tự nhiên, “Anh đã cứu mạng tôi. Nếu không có anh chắc chắn tôi đã tiêu rồi. Tôi còn biết nói gì bây giờ ?”.
Dellray nhún vai, lảng tránh những lời cảm ơn, rồi hỏi xin một điếu thuốc lá từ mấy cảnh sát mặc thường phục đang đứng trước nhà ga. Anh hít hít điếu Marlboro và cài nó lên sau vành tai. Anh ngước nhìn về phía ô cửa sổ tối om trong nhà ga. “Lạy trời”, anh nói bâng quơ, rồi thở dài. “Đến lúc chúng ta phải gặp chút may mắn rồi chứ.”
Khi họ tóm được Joe D’Oforio và tống hắn vào băng ghế sau của chiếc xe, gã đã cho họ biết là tên Vũ công vừa mới chỉ rời khỏi đó được khoảng mười phút. Theo lời khai của Joe thì gã chỉ biết hắn đã đi xuống cầu thang và biến mất trong một đường tàu nhánh. Jodie – biệt hiệu của gã đần này – không biết hắn đi theo hướng nào, chỉ biết là hắn bỏ đi rất đột ngột cùng khẩu súng và chiếc ba lô. Haumann và Dellray cử lực lượng vũ trang của mình sục sạo quanh nhà ga, trên các đường tàu và khu nhà ga Tòa Thị chính gần đó. Lúc này họ đang chờ kết quả cuộc càn quét.
“Nhanh lên nào…”
Mười phút sau một nhân viên SWAT đẩy cửa bước vào. Sachs và Dellray cùng quay ra nhìn anh ta với ánh mắt hy vọng. Nhưng viên đặc vụ lắc đầu. “mất dấu chân của hắn ở cuối đường tàu khoảng 100 feet. Hoàn toàn không biết hắn đã đi theo hướng nào.”
Sachs thở dài và chán nản thông báo lại tin đó cho Rhyme rồi hỏi bây giờ cô có nên tiến hành kiểm tra trên đường tàu và nhà ga gần đó không.
Anh không giấu được vẻ chua chát khi nhận cái tin đó, đúng như cô đoán. “Chó chết thật”, nhà hình sự học rủa ầm lên. “Không, chỉ kiểm tra cái nhà ga thôi. Kiểm tra những nơi khác cũng vô ích. Mẹ kiếp, là sao hắn có thể làm như thế nhỉ ? Cứ như kiểu hắn may mắn có con mắt thứ ba khốn khiếp vậy.”
“Chậc”, cô chép miệng an ủi, “ít nhất lần này chúng ta cũng có nhân chứng.”
Và ngay lập tức cô thấy tiếc vì đã nói câu đó ra.
“Nhân chứng?”, Rhyme gầm lên. “Một nhân chứng à? Tôi cần quái gì nhân chứng. Tôi cần bằng chứng kia! Chết tiệt, nhưng thôi, cứ đưa hắn đến đây. Để xem hắn có thể cho chúng ta biết những gì. Nhưng này, Sachs, tôi muốn cô kiểm tra cái nhà ga đó như thể cô chưa kiểm tra một hiện trường vụ án nào. Cô có nghe tôi nói không? Cô còn ở đó không, Sachs? Cô có nghe tôi nói không đấy ?”