Jace đang nằm trên giường, giả bộ ngủ - vì chính anh chứ không phải ai khác – thì tiếng gõ cửa cuối cùng cũng làm anh bực mình. Anh lăn xuống giường, mặt nhăn nhó. Dù anh tỏ ra mình vẫn khỏe lúc trong nhà kính, toàn bộ cơ thể anh vẫn đau nhừ từ sau sự kiện tối qua.
Anh biết ai đứng ngoài trước khi ra mở. Có lẽ Simon lại biến thành chuột. Lần này Simon có thể sống mãi kiếp chuột, vì anh, Jace Wayland, đã sẵn sàng làm chuyện tương tự.
Cô đang ôm lấy cuốn tập phác thảo, mái tóc sáng màu xổ tung khỏi bím tóc. Anh dựa người vào khung cửa, tảng lờ đi lượng adrenaline đang chạy rần rần khi nhìn thấy cô. Anh tự hỏi nguyên do, và đây không phải là lần đầu tiên. Isabelle sử dụng sắc đẹp như dùng roi, nhưng Clary không hề biết mình đẹp. Có lẽ đó là lý do.
Anh chỉ có thể nghĩ ra duy nhất một lý do để cô ở đây, dù chẳng có lý do gì sau những gì anh đã nói với cô. Lời nói là vũ khí, bố đã dạy anh vậy, và anh đã muốn làm Clary tổn thương hơn bất cứ cô gái nào anh từng muốn làm thương tổn. Thật sự, anh không chắc trước đây anh có từng muốn làm tổn thương một cô gái nào không. Thường anh chỉ muốn có họ, rồi lại muốn họ để anh một mình.
“Đừng nói với anh,” anh nói, nhả chữ ra theo cách anh biết cô ghét cay ghét đắng. “Simon đã biến thành mèo rừng Nam Mỹ và em muốn anh làm điều gì đó trước khi Isabelle biến cậu ta thành khăn choàng đấy nhé. Mà em sẽ phải đợi tới ngày mai. Giờ anh không làm việc.” Anh chỉ vào mình – anh đang mặc bộ đồ ngủ xanh da trời bị rách một lỗ ở cổ tay. “Nhìn này. Đồ ngủ đấy.”
Clary gần như chẳng thèm nghe anh nói. Anh nhận thấy cô đang ôm khư khư một thứ trong tay – cuốc tập phác thảo. “Jace,” cô nói. “Chuyện quan trọng đấy.”
“Đừng nói với anh,” anh nói. “Em đang cần vẽ ghê gớm. Em cần một mẫu khỏa thân. À, giờ anh không có tâm trạng. Em nên nhờ bác Hodge,” anh thêm, sau một thoáng suy nghĩ. “Anh nghe nói bác ấy sẽ làm tất cả để đổi lấy một…”
“JACE!” cô ngắt lời, giọng tăng lên thành tiếng hét. “ĐỀ NGHỊ ANH IM LẶNG MỘT GIÂY VÀ LẮNG NGHE, ĐƯỢC KHÔNG?”
Anh chớp mắt.
Cô hít một hơi sâu và ngước nhìn anh. Mắt cô tràn ngập sự hoang mang. Một nỗi thôi thúc quen thuộc dâng lên trong anh: niềm thôi thúc muốn vòng tay qua cô mà nói với cô rằng tất cả đều ổn. Anh không làm vậy. Theo kinh nghiệm bản thân, mọi chuyện hiếm khi ổn thoả lắm. “Jace,” cô nói, quá nhỏ khiến anh phải nhoài người lên mới nghe rõ, “Em nghĩ mình biết mẹ em giấu chiếc Cốc Thánh ở đâu. Bên trong một bức tranh.”
“Hả?” Jace vẫn đang nhìn cô như thể cô nói với anh rằng cô vừa thấy một trong các Tu Huynh Câm khỏa thân mà nhào lộn trên hành lang. “Ý em là mẹ em giấu nó đằng sau một bức tranh hả? Nhưng tất cả những bức hình trong căn hộ của em đã bị xé toạc khỏi khung hết rồi mà.”
“Em biết.” Clary liếc vào trong phòng ngủ anh. Mừng quá, trong phòng anh không giống như đang có ai ở đó. “Nghe này, em vào được không? Em muốn cho anh xem cái này.”
Anh lùi khỏi cửa. “Nếu nhất thiết.”
Cô ngồi xuống giường, đặt cuốn tập thăng bằng trên đầu gối. Mấy món quần áo anh vừa mặc vứt đầy trên ga giường, nhưng phần còn lại của căn phòng gọn gàng như phòng thầy tu. Không có lấy một bức hình trên tường, không một áp phích hay ảnh gia đình hoặc bạn bè gì cả. Những cái chăn trắng tinh được trải thật căng thật thẳng ngang giường. Không hề giống căn phòng của một cậu thiếu niên điển hình. “Đây,” cô nói và lật cho tới khi tìm ra bức vẽ cốc cà phê. “Nhìn cái này nhé.”
Jace ngồi xuống bên cạnh, gạt chiếc áo phông vừa cởi ra sang bên. “Đó là cốc cà phê.”
Cô nghe thấy sự bực bội trong chính giọng mình. “Em biết đấy là cốc cà phê.”
“Anh thật sự không thể đợi tới khi em vẽ ra một cái gì đó thực sự phức tạp, như cầu Brooklyn hay một con tôm hùm chẳng hạn. Em có thể tặng anh một thông điệp nhạc cũng được.”
Cô lờ anh đi. “Nghe này. Đây là thứ em muốn anh nhìn thấy.” Cô đặt tay trên hình vẽ; rồi, với một cử động cực nhanh, cho tay vào trongtờ giấy. Thoắt sau khi rút tay ra, chiếc cốc cà phê đã treo lủng lẳng trên những ngón tay cô.
Cô đã tưởng tượng ra cảnh Jace nhảy dựng lên vì kinh ngạc và hét gì đó tựa “Ơ – rê - ka!” Nhưng không – cô ngờ, phần lớn vì Jace đã thấy nhiều thứ kỳ lạ hơn trong đời, và vì không còn ai dùng từ “Ơ – rê – ka!” nữa rồi. Nhưng đôi mắt anh đang mở lớn. “Em làm điều đó?”
Cô gật đầu.
“Lúc nào?”
“Ngay lúc nãy, trong phòng em, sau khi – sau khi Simon bỏ đi.”
Cái nhìn của anh sắc sảo hơn, nhưng anh không nói gì thêm về đề tài đó. “Em dùng chữ rune? Những chữ nào?”
Cô lắc đầu, tay mân mê trang giấy giờ đã trắng tinh. “Em không biết. Chúng xuất hiện trong đầu em và em vẽ đúng chính xác như em nhìn thấy.”
“Những chữ em thấy trong Sách Xám hả?”
“Em không biết.” Cô vẫn lắc đầu. “Em không thể nói với anh được.”
“Và chưa từng có ai dạy em sao? Mẹ em chẳng hạn?”
“Không. Em đã nói với anh rồi, mẹ em luôn nói với em rằng chẳng có thứ gì là phép thuật cả…”
“Chắc chắn mẹ em có dạy em,” anh ngắt lời. “Và sau đó khiến em quên đi. Magnus nói ký ức của em sẽ từ từ quay lại.”
“Có lẽ.”
“Tất nhiên.” Jace đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại quanh phòng. “Chắc chắn là Luật không cho phép sử dụng những chữ rune này trừ phi em được cấp phép. Nhưng giờ, đó không phải vấn đề. Em nghĩ mẹ em đã đưa Cốc Thánh vào bức tranh? Giống như em đã làm với chiếc cốc kia?”
Clary gật đầu. “Nhưng không phải trong những bức tranh ở nhà em.”
“Thế ở đâu khác nào? Tại phòng trưng bày chăng? Có thể ở bất cứ đâu…”
“Hoặc không hề là một bức tranh nào cả,” Clary nói. “Mà là một lá bài.”
Jace dừng lại, quay phắt về phía cô. “Một lá bài ư?”
“Anh nhớ bộ bài của Quý Bà Dorothea không? Bộ bài mẹ em đã vẽ tặng đấy?”
Anh gật đầu.
“Và nhớ khi em rút là Ace of Cups không? Sau đó khi em thấy bức tượng Thiên Thần, Chiếc Cốc trong tay bức tượng trông rất quen mắt. Đó là vì em từng thấy nó, trong lá Ace. Mẹ em đã vẽ Chiếc Cốc Thánh trong bộ bài của Quý bà Dorothea.”
Jace đứng sau cô một bước. “Vì mẹ biết lá bài sẽ an toàn nhờ những kết giới giăng quanh đất thánh và bằng việc tặng bộ bài, mẹ em sẽ đưa chiếc Cốc cho Dorothea mà không thực sự nói cho bà ta hay nó là gì hay vì sao bà ta phải giấu nó.”
“Hoặc thậm chí bà ta chẳng cần phải giấu làm gì. Dorothea không bao giờ đi đâu, và sẽ chẳng bao giờ cho bộ bài ấy đi…”
“Và mẹ em ở một nơi lý tưởng để để mắt tới cả chiếc Cốc lẫn bà ta.” Jace nghe ra khá ấn tượng. “Một bước không tệ.”
“Em đoán vậy.” Clary cố kiểm soát sự run rẩy trong giọng nói. “Em ước gì mẹ không giấu giỏi tới mức này.”
“Ý em là sao?”
“Em muốn nói nếu chúng tìm ra nó, có thể chúng đã tha cho mẹ em. Nếu chúng chỉ muốn chiếc Cốc…”
“Chúng có thể đã giết mẹ em, Clary ạ,” Jace nói. Cô biết anh đang nói thật. “Đấy cùng là những đã giết bố anh. Lý do duy nhất mà mẹ em còn sống tới giờ này là vì chúng không tìm ra chiếc Cốc. Hãy mừng mẹ em đã giấu nó quá tài.”
“Tớ không hiểu những thứ này thì có liên quan gì tới chúng ta,’ Alec nói, khuôn mặt của anh ta nom có vẻ mệt mỏi ẩn dưới mái tóc lòa xòa. Jace đã đánh thưc mọi cư dân của Học Viện ngay khi bình mình vừa ló rạng và lôi họ tới thư viện để, như lời anh bảo, ‘bàn binh bố trận.” Alec vẫn mặc bộ pijama, Isabelle mặc bộ váy ngủ màu hồng. Còn bác Hodge, trong bộ com lê vải tuýt gọn ghẽ như thường lệ, đang uống cà phê bằng chiếc cốc sứ màu xanh lá cây đã mẻ. Chỉ có Jace, mắt sáng lên dù những vết sẹo đã nhạt dần, có vẻ thực sự tỉnh táo. “Tớ nghĩ tìm chiếc Cốc là việc của hội Clave rồi chứ.”
“Chỉ là nếu chúng ta tự mình làm sẽ tốt hơn,” Jace nóng nảy đáp. “Bác Hodge và tớ đã bàn bạc và đưa tới quyết định.”
“Được thôi,” Isabelle vén bím tóc buộc bằng ruy băng hồng ra sau tai. “Em tham gia.”
“Anh thì không,” Alec nói. “Giờ đã có những đặc vụ của Clace hoạt động trong thành phố ngay lúc này nhằm tìm kiếm Cốc Thánh rồi. Cứ chuyển thông tin cho họ và để họ làm việc.”
“Không đơn giản như vậy,” Jace nói.
“Đơn giản chứ,” Alec ngồi nhoài về phía trước, nhíu mày. Điều này chẳng liên quan gì tới chúng ta mà chỉ toàn liên quan đến – đến chứng nghiện nguy hiểm của cậu mà thôi.”
Jace lắc đầu, rõ ràng đang bực. “Tớ không hiểu vì sao cậu cứ chống đối với tớ về vấn đề này.”
Vì anh ấy không muốn anh bị thương, Clary nghĩ, và thấy kinh ngạc trước khả năng hoàn toàn không thể nhìn ra điều đang xảy ra với Alec của Jace. Nhưng mà này, cô đã bỏ qua cùng một điều đó với Simon. Cô là ai mà dám lên giọng chứ? “Nghe này, Dorothea – chủ nhân của Sanctuary – không tin hội Clave. Thực ra là ghét họ. Nhưng bà ấy lại tin chúng ta.”
“Bà ấy chỉ tin em thôi,” Clary nói. “Em không biết gì về anh. Em không chắc bà ấy có thích anh hay không.”
Jace lờ cô đi. “Thôi nào, Alec. Sẽ vui mà. Hãy nghĩ tới những vinh quang nếu chúng ta mang Cốc Thánh trở lại Idris! Mọi người sẽ không bao giờ quên tên chúng ta.”
“Tớ không quan tâm tới vinh quang,”Alec nói, ánh mắt chưa từng rời khỏi khuôn mặt Clary. “Tớ không quan tâm tới việc làm chuyện ngu ngốc nào hết.”
“Tuy nhiên, trong trường hợp này, Jace nói đúng,” bác Hodge nói. “Nếu hội Clave phải đến tới đất thánh, đó sẽ là thảm họa. Dorothea sẽ bỏ chạy cùng chiếc Cốc và có lẽ sẽ biến mất mãi mãi. Không, Jocelyn rõ ràng chỉ muốn người duy nhất có thể tìm thấy chiếc Cốc, và đó là Clary, chỉ Clary mà thôi.”
“Vậy thì để cô ta đi một mình đi,” Alec nói.
Kể cả Isabelle cũng phải há hốc mồm khi nghe. Jace, nãy giờ đang nhoài người tới trước chống hai tay lên bàn, giờ đứng thẳng dậy và lạng lùng nhìn Alec. Clary nhận thấy, chỉ có Jace là có thể trông bảnh tai khi mặc quần ngủ và áo phông cũ, nhưng anh không còn tỏ ra vậy, có lẽ do sức chi phối ý chí quá lớn. “Nếu cậu sợ vài Kẻ Lầm Đường, vậy thì cứ việc ở nhà,” anh nhẹ nhàng nói.
Alec trắng bệch. “Tớ không sợ,” anh ta nói.
“Tốt,” Jace nói. “Vậy thì chẳng còn vấn đề gì nữa nhỉ?” anh nhìn quanh phòng. “Chúng ta cùng chung chiến hào rồi.”
Alec ậm ừ đồng ý, trong khi Isabelle gật đầu lia lịa. “Chắc rồi,” cô nói. “Nghe có vẻ vui.”
“Mình không rõ vui là thế nào,” Clary nói. “Nhưng tất nhiên là mình tham gia.”
“Nhưng Clary,” bác Hodge vội nói. “Nếu cháu lo lắng tới vấn đề nguy hiểm, cháu không cần phải đi. Chúng ta có thể báo cho hội Clave…”
“Không ạ,” Clary nói, khiến chính mình cũng ngạc nhiên. “Mẹ cháu muốn cháu tìm thấy nó. Không phải Valentine, và cũng chẳng phải họ.” Mẹ cô không trốn chạy khỏi lũ quái vật, Magnus đã nói. “Nếu mẹ thực sự muốn dành cả đời để ngăn Valentine chạm tới Cốc Thánh, ít ra cháu có thể giúp mẹ làm điều đó.”
Bác Hodge mỉm cười với cô. “Ta nghĩ mẹ cháu biết cháu sẽ nói vậy,” bác nói.
“Dù gì cậu cũng không phải lo đâu,” Isabele nói. “Cậu sẽ ổn mà. Bọn mình xử lý tốt vài ba Kẻ Lầm Đường. Chúng điên thật, nhưng không thông minh lắm.”
“Và dễ hơn đối phó với quỷ dữ nhiều,” Jace nói. “Không phải chơi bài lừa gì chúng hết. À, chúng ta sẽ cần ô tô đấy.” anh nói thêm. “Càng lớn càng tốt.”
“Vì sao?” Isabelle hỏi. “Chúng ta đã bao giờ cần ô tô đâu.”
“Chúng ta chưa bao giờ lo về việc mang theo một vật vô giá. Anh không muốn tha lôi nó lên tàu L,” Jace giải thích.
“Vậy đi tắc xi,” Isabelle nói. “Hoặc thuê xe tải.”
Jace lắc đầu. “Anh mốn một môi trường chúng ta kiểm soát được. Anh không muốn phải đối phó với tài xế tắc xi hoặc những công ty cho thuê xe của người thường khi chúng ta làm đang chuyện quan trọng tới nhường này.”
“Cô không có xe hay bằng lái gì à?” Alec hỏi Clary, nhìn cô với vẻ thù địch rõ ràng. “Tôi nghĩ đám người thường ai cũng có mà.”
“Mười lăm tuổi thì chưa có đâu,” Clary bực bội đáp. “Năm nay tôi sẽ có bằng, nhưng chưa phải bây giờ.”
“Cô hữu dụng thật đấy.”
“Ít nhận bạn em cũng biết lái xe,” cô đáp lại. “Simon có bằng lái.”
Cô ngay lập tức thấy hối hận vì điều đã nói ra.
“Thật sao?” Jace nói, theo kiểu trầm tư tới bực mình.
“Nhưng cậu ấy không có xe,” cô vội nói thêm.
“Vậy cậu ấy đi xe của bố mẹ à?” Jace hỏi.
Clary thở dài, tựa người ra bàn. “Không. Thường cậu ấy sẽ lái xe tải của Eric. Kiểu như, trong những lần đi diểu diễn hay đại loại thế. Thi thoảng Eric cho cậu ấy mượn những chuyện khác. Như đi hẹn hò ấy.”
Jace khịt mũi. “Cậu ta dùng xe tải để đón người yêu? Chả trách cậu ta thật là có giá với mấy cô chị.”
“Đó là ô tô,” Clary nói. “Anh chỉ ganh tỵ vì Simon có cái mà anh không có.”
“Cậu ta có nhiều thứ mà anh không có lắm,” Jace nói. “Như cận thị này, dáng người xấu này, và thiếu hợp tác tới bực mình.”
“Anh biết đây,” Clary nói, “hầu hết những nhà tâm lý học đồng tình rằng tính thù địch thật sự làm giảm đi sự thu hút người khác phái đấy.”
“À,” Jace bình thản đáp, “có lẽ điều này giải thích vì sao anh hay gặp người ghét anh thế.”
“Tớ không ghét cậu,” Alec chen vào.
“Đó là vì chúng ta chia sẻ tình huynh đệ,” Jace nói, sải bước đi tới bàn. Anh vớ lấy cái điện thoại màu đen và giơ ra cho Clary. “Gọi cho cậu ta đi.”
“Gọi ai?” Clary nói, hơi chậm tiêu trong một lúc. “Eric á? Cậu ấy không bao giờ cho em mượn xe,”
“Simon ấy,” Jace nói. “Gọi Simon và nhờ xem cậu ta có đưa bọn mình tới nhà em không.”
Clary nỗ lực lần cuối. “Anh không biết một Thợ Săn Bóng Tối nào có xe à?”
“Ở New York ư?” Nụ cười của Jace tắt dần. “Nghe này, mọi người đều ở Idris và Hiệp Định, và nếu có, họ sẽ nằng nặc muốn đi cùng chúng ta. Hoặc là gọi cho cậu ta hoặc chẳng có gì hết.
Cô nhìn thẳng vào đôi mắt anh trong thoáng chốc. Trong đó có sự thách thức, và còn một điều gì khác, như thể anh đáng ép Clary giải thích sự lưỡng lự của cô. Cô quạu mặt, đi tới bên bàn và giật điện thoại khỏi tay anh.
Cô không cần nghĩ trước khi quay số. Cô nhớ rõ số điện thoại nhà Simon hệt như nhớ số điện thoại của chính cô. Cô chuẩn bị để nghe tiếng mẹ hoặc tiếng một trong những người chị gái của cậu, nhưng chính Simon mới là người bắt máy sau hồi chuông thứ hai. “A lô?”
“Simon hả?”
Im lặng.
Jace đang nhìn cô. Clary nhắm chặt mắt, cố giả vờ là anh không ở đó. “Mình đây,” cô nói. “Clary đây.”
“Mình biết là ai.” Cậu có vẻ bực bội. “Mình đang ngủ mà.”
“Mình biết. Trời còn ngủ sớm. Mình xin lỗi.” Cô xoắm dây điện thoại quanh ngón tay. “Mình cần nhờ cậu chút việc.”
Lại một khoảng im lặng nữa trước khi cậu cười chán nản. “Cậu đang đùa.”
“Mình không đùa,” cô nói. “Bọn mình biết chiếc Cốc Thánh ở đâu và bọn mình đang sửa soạn đi lấy nó. Vấn đề là, bọn mình cần xe.”
Cậu lại cười. “Xin lỗi, nhưng cậu đang bảo mình là những người bạn giết quỷ của cậu cần mẹ mìnhđưa tới địa điểm đương đầu cùng thế lực hắc ám?”
“Thực ra, mình nghĩ cậu có thể hỏi mượn xe của Eric.”
“Clary này, nếu cậu nghĩ là tớ-”
“Nếu chúng ta có Cốc Thánh, mình sẽ có cách đưa mẹ mình về. Đó là lý do duy nhất Valentine vẫn chưa giết mẹ hay thả mẹ đi.”
Simon thở dài sườn sượt. “Cậu nghĩ trao đổi dễ vậy sao? Clary, mình không biết nữa.”
“Mình cũng không biết. Mình chỉ biết đây là cơ hội.”
“Thứ đó rất quyền năng đúng không? Trong D&D thì thường chúng ta không nên đụng vào những thứ quyền năng trước khi biết chúng ta làm được gì.”
“Mình sẽ không đụng vào nó. Mình chỉ dùng nó để đưa mẹ mình về.”
“Mình nghe mà chẳng hiểu gì, Clary ạ”
“Đây không phải D&D, Simon!” cô gần như hét lên. “Đây không phải trò chơi giải trí nơi mà điều tệ hại nhất xảy ra là khi bạn không may trong lần thả xúc xắc. Chúng ta đang nói tới mẹ mình, và Valentine có thể đang tra tấn mẹ. Hắn có thể giết mẹ. Mình sẽ làm mọi điều để đưa mẹ về - cũng như mình đã làm với cậu”
Lại im lặng. “Có lẽ cậu đúng. Mình không biết, đây không thực sự là thế giới của mìn. Nghe này, thật ra chúng ta sẽ đi đâu? Để mình có thể nói với Eric.”
“Đừng mang cậu ta theo,” cô vội can.
“Mình biết mà,” cậu trả lời với sự bình tĩnh rất kịch. “Mình không ngốc.”
“Chúng ta sẽ về nhà mình. Nó ở trong nhà mình ấy.”
Lại một khoảng im lặng ngắn – lần này là hoang mang. “Trong nhà cậu? Mình nghĩ nhà cậu đầy thây ma sống đi lại chứ?”
“Chiến binh Lầm Đường. Họ không phải thây ma sống lại. Mà dù sao, Jace và những người khác có thể xử lý chúng trong khi mình lo vụ chiếc Cốc.”
“Vì sao cậu phải lấy chiếc Cốc?” Simon có vẻ hoảng.
“Vì mình là người duy nhất làm được,” cô nói. “Đón bọn mình ở góc đường ngay khi có thể nhé.”
Cậu lẩm bẩm gì đó không nghe ra, rồi: “Được.”
Cô mở mắt. Nước mắt làm thế giới trở nên nhòe nhoẹt. “Cám ơn nhé, Simon,” cô nói. “Cậu là…”
Nhưng Simon đã cúp máy.
“Tự dưng bác nghĩ,” bác Hodge nói, “rằng những vấn đề nan giải của quyền lực luôn như nhau.”
Clary liếc xéo sang bác. “Bác nói sao ạ?”
Cô đang ngồi bên bậu cửa sổ của thư viện, bác Hodge ngồi trên chiếc ghế tựa với Hugo đậu trên tay vịn. Những gì còn sót lại của bữa điểm tâm – mứt dinh dính, vụn bánh mỳ và những vệt bơ- dính trên chồng đĩa đặt trên chiếc bàn thấp mà hình như chẳng ai muốn dọn đi. Cũng chẳng có gì bất ngờ, vì tất cả những gì cô phải làm là mặc quần bò áo phông vào, chải sơ qua mái tóc trong khi mọi người khác đang mải mê trang bị tới tận răng. Vì đã đánh mất con dao của Jace lúc ở khách sạn, vật duy nhất chứa sức mạnh siêu nhiên mà cô có là viên đá phù thủy trong túi.
“Bác đang nghĩ tới cậu bạn Simon của cháu,” bác Hodge nói. “và về Alec và Simon, rồi quan hệ giữa mấy đứa.”
Cô nhìn ra ngoài khung cửa. Trời đang mưa, những hạt mưa lớn bắn tung tóe vào khung cửa. Bầu trời mang màu xám xịt. “Họ thì liên quan gì tới nhau?”
“Ở đâu có những cảm xúc không được đáp lại,” bác Hodge nói, “thì ở đấy có sự mất cân bằng về quyền lực. Đấy là một sự mất cân bằng rất dễ bị khai thác, nhưng không phải là hành động khôn ngoan. Nơi nào có tình yêu, nơi đó thường cũng có sự thù hận. Chúng tồn tại song hành.”
“Simon không ghét cháu.”
“Có thể, dần dần cậu ta sẽ ghét cháu, nếu cậu ấy cảm nhận cháu đang lợi dụng cậu ta.” Bác Hodge giơ một tay lên. “Bác biết cháu không có ý định đó, và trong một vài trường hợp sự cần thiết lại dồn tính đẹp đẽ của cảm xúc vào chân tường. Nhưng tình huống này lại nhắc cho bác nghĩ tới vấn đề khác. Cháu vẫn còn bức hình bác đưa cháu chứ?”
Clary lắc đầu. “Giờ thì không. Cháu để trong phòng rồi. Cháu có thể đi lấy…”
“Khỏi.” Bác Hodge gãi bộ lông đen tuyền của Hugo. “Khi mẹ cháu còn trẻ, mẹ cháu có một người bạn thân, cũng như cháu có Simon vậy. Họ thân thiết như anh em. Thật ra, nhiều người còn tưởng họ là anh trai em gái nữa. Khi họ dần trưởng thành, mọi người xung quanh đều nhận thấy chú ta đã yêu mẹ cháu, nhưng mẹ cháu lại không hề nhận ra. Mẹ cháu luôn gọi chú ta là ‘bạn’.”
Clary nhìn bác Hodge. “Bác đang nói tới chú Luke?”
“Phải,” bác Hodge nói. “Lucian luôn nghĩ chú ta và Jocelyn phải ở bên nhau. Khi mẹ cháu gặp và đem lòng yêu Valentine, Lucian không chấp nhận nổi. Sau khi họ kết hôn, chú ta rời Circle và biến mất – và để cho bọn ta tưởng chú ấy đã chết.”
“Chú ấy chưa bao giờ nói – chưa bao giờ để lộ bất cứ điều gì như thế cả,” Clary nói. “Trong suốt bao nhiêu năm. chú ấy có thể hỏi cưới mẹ cháu…”
“Chú ấy biết câu trả lời sẽ là thế nào,” bác Hodge nói, nhìn ra ngoài giếng trời vấy mưa. “Lucian không bao giờ là loại người huyễn hoặc bản thân. Không, chú ấy bằng lòng được ở bên cạnh mẹ cháu – có lẽ là, chú ta nghĩ thời gian trôi qua rồi cảm xúc của mẹ cháu biết đâu sẽ thay đổi.”
“Nhưng nếu chú ấy yêu mẹ cháu, vì sao chú ấy nói với những người kia là chú ấy không quan tâm tới chuyện xảy ra với mẹ cháu chứ? Vì sao chú ấy không chịu để họ nói cho chú ấy biết mẹ cháu đang ở đâu?”
“Như bác đã nói, nơi nào có tình yêu, nơi đó có thù hận,” bác Hodge nói. “Mẹ cháu đã làm chú ấy tổn thương sâu sắc bao năm trước. Mẹ cháu đã quay lưng chú ấy. Vậy mà chú ấy luôn là con chó trung thành của mẹ cháu, chưa bao giờ phản kháng, chưa bao giờ buộc tội, chưa bao giờ thổ lộ tình cảm với mẹ cháu. Có lẽ chú ấy thấy đây là cơ hội để trả thù. Đề làm mẹ cháu đau đớn hệt như chú ấy đã từng phải đau đớn.”
“Chú Luke sẽ không làm thế.” Nhưng rồi Clary nhớ tới cái giọng lạnh băng của chú khi chú bảo cô đừng nhờ vả gì chú hết. Cô thấy sự băng giá trong đôi mắt chú khi chú đối mặt với những kẻ tôi tớ của Valentine. Đó không phải chú Luke mà cô từng biết, từng lớn lên bên cạnh. Chú Luke kia sẽ không bao giờ muốn trả thù mẹ cô vì đã không yêu chú đủ nhiều hay không yêu chú theo cách chú muốn. “Nhưng mẹ cháu có yêu chú ấy chứ,” Clary nói, nói lớn tiếng mà không hề nhận ra. “Chỉ là không giống cách chú yêu mẹ mà thôi. Thế là không đủ sao.”
“Có lẽ chú ấy không nghĩ vậy.”
“Chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng ta lấy được chiếc Cốc?” cô nói. “Sao chúng ta tìm được Valentine để cho hắn biết chúng ta đã có nó?”
“Hugo sẽ tìm hắn.”
Những hạt mưa rơi lộp độp xuống ô cửa sổ. Clary rùng mình. “Cháu đi lấy áo khoác đây,” cô nói và rời khỏi bậu cửa.
Cô tìm thấy chiếc áo lanh có nón màu xanh – hồng nhét dưới đáy ba lô. Khi cô lôi nó ra, cô nghe có tiếng thứ gì đó bị vò nhàu. Đó là bức hình hội Circle, mẹ cô và Valentine. Cô nhìn nó một lúc lâu trước khi bỏ lại túi.
Khi trở lại thư viện, những người khác đã tụ tập đông đủ cả: bác Hodge ngồi quan sát với Hugo đậu trên vai, Jace mặc cả cây đen, Isabelle đi đôi bốt-dẫm-quỷ và roi vàng, còn Alec đeo ống tên chéo vai và bao cổ tay che chắn cánh tay phải từ cổ tay tới khuỷu tay. Mọi người trừ bác Hodge đều phủ đầy những Ấn Ký mới vẽ, mỗi centimet trên làn da trần đều chi chít những họa tiết uốn lượn đẹp mắt. Jace đã xắn ống tay áo trái, cằm đặt trên vai và nhăn mặt khi vẽ Ấn Ký hình bát giác trên cẳng tay.
“Tớ thuận tay trái mà,” Jace nói, nhưng giọng nhẹ nhàng và giơ thanh stele ra. Alec trông nhẹ nhõm khi cầm lấy thanh stele, như thể anh không chắc ràng đã được tha thứ cho hành động lúc nãy chưa. “Đây là chữ iratze cơ bản,” Jace nói khi Alec đang cúi đầu tóc đen của mình lên cánh tay Jace, cẩn thận vẽ từng nét của chữ rune trị thương. Jace nhăn mặt khi thanh stele di chuyển trên da anh, mắt nhắm hờ và tay nắm chặt làm nổi cơ bắp trên tay trái. “Vì Thiên Thần, Alec…”
“Tớ đang cố cẩn thận mà,” Alec nói. Anh thả tay Jace ra và lùi lại ngắm nhìn tác phẩm của mình. “Rồi đó.”
Jace nhả nắm tay, hạ tay xuống. “Cám ơn.’ Khi đó anh dường như cảm nhận sự hiệ diện của Clary, liếc nhìn cô, đôi mắt vàng nheo lại. “Clary.”
“Trông anh sẵn sàng rồi nhỉ,” cô nói khi Alec, đột nhiên đỏ mặt, tránh xa Jace và lăng xăng sửa soạn cung tên.
“Cả bọn đều sẵn sàng,” Jace nói. “Em vẫn còn con dao anh đưa em chứ?”
“Không. Em làm mất ở Dumort rồi, nhớ không?”
“À nhỉ.” Jace hài lòng nhìn cô. “Suýt giết được một người sói bằng con dao đó. Anh nhớ.”
Isabelle, đang đứng bên cửa sổ, đảo mắt chán chường. “Em quên mất đấy là điều khiến anh sục sôi và bận tâm đó Jace. Con gái giết chóc.”
“Anh thích bất cứ ai giết chóc mà,” anh nói một cách điềm đạm, “Đặc biệt nếu đó là anh.”
Clary sốt ruột liếc nhìn đồng hồ đặt trên bàn. “Chúng ta nên xuống nhà thôi. Simon sẽ tới bất cứ lúc nào.”
Bác Hodge đứng dậy. Clary thấy trông bác khá ư mệt mỏi, như thể không ngủ trong nhiều ngày.
“Cầu cho Thiên Thần bảo vệ các cháu,” bác nói và Hugo bay lên kêu quang quác, ngay khi tiếng chuông chính ngọ bắt đầu điểm.
Trời vẫn mưa lất phất khi Simon đỗ xe ở góc đường và nhấn còi hai lần. Tim Clary nảy lên – một vài phần trong cô đã lo rằng cậu sẽ không xuất hiện.
Jace nheo mắt nhìn qua cơn mưa nhỏ giọt. Bốn người bọn họ đã đứng trú dưới vòm đá. “Cái đó là xe tải thùng đấy hả? Giống quả chuối thối quá.”
Không thể chối cãi – Eric đã sơn chiếc xe màu vàng dạ quang, thân xe chi chít những vết lõm và gỉ như những vết sâu răng. Simon lại bấm còi. Clary thấy bạn, một hình dáng mờ mờ qua ô cửa sổ ướt mưa. Cô thở dài và đội mũ lên để che tóc. “Đi nào.”
Họ dẫm lên những vũng nước bẩn trên vỉa hè, đôi bốt to tổ bố của Isabelle tạo nên từng tiếng động kiêu hãnh mỗi lần đặt chân xuống. Simon, vẫn để động cơ hoạt động, bò ra sau kéo mở cửa hông, để lộ ra những hàng ghế mà vỏ bọc đã mủn tới nữa. Những cái lò xo có vẻ nguy hiểm thò ra qua những khe hở. Isabele nhăn múi. “Ngồi có an toàn không đấy?”
“An toàn hơn là bị trói trên nóc,” Simon đáp một cách thỏa mãn, “đấy là lựa chọn còn lại.” Cậu gật đầu chào Jace và Alec, hoàn toàn bỏ qua Clary. “Hey.”
“Ừ hey,” Jace nói và nhấc cái tủi vải thô kêu sột soạt đựng vũ khí. “Chúng tôi bỏ cái này vào đâu đây?”
Simon chỉ anh ra khoang sau, nơi những cậu con trai trong nhóm nhạc thường để nhạc cụ, còn Alec và Isabelle chui vào trong xe và ngồi mớm trên ghế. “Súng săn!” Clary nói khi Jace đi vòng từ bên kia xe sang.
Alec nắm lấy cây cung, đeo ở sau lưng. “Đâu?”
“Cô ấy bảo muốn ngồi ghế trước đấy,”, Jace nói và hất mái tóc ướt đang lòa xòa xuống mắt.
“Cung đẹp đấy,” Simon nói và gật đầu với Alec.
Alec chớp mắt, nước mưa lăn xuống từ hàng lông mi. “Cậu biết nhiều về bắn cung không?” anh ta nói, giọng cho thấy anh có chút nghi ngờ.
“Hồi ở trại tôi có học bắn cung,” Simon nói. “Học suốt sáu năm.”
Đáp lại cậu là ba ánh mắt nhìn ngơ ngác và một nụ cười khích lệ từ phía Clary, mà Simon đã lờ tịt đi. Cậu ngước nhìn bầu trời đang sa sầm. “Chúng ta nên đi trước khi trời đổ mưa tiếp.”
Ghế trước đầy vỏ bim bim Doritos và vụn bánh Pop-Tart. Clary phủi những gì có thế đi. Simon nhấn chân ga trước khi cô làm xong việc, khiến cô ngã ngửa ra sau ghế. “Ối,” cô oán thán.
“Xin lỗi.” Simon không thèm nhìn.
Clary có thể nghe thấy những người khác nói chuyện khe khẽ ở đằng sau – hầu như là bàn về cách đánh và cách tốt nhất để chặt đầu một con quỷ mà không để máu dính vào đôi bốt da mới. Dù chẳng có gì ngăn cách ghế trước và phần còn lại của chiếc xe, Clary vẫn cảm nhận được sự im lặng ngượng ngùng giữa cô và Simon, như thể họ đang ở một mình.
“Vậy ‘hey’ là thế nào?” cô hỏi khi Simon lái xe rẽ sang đường FDR, đường cao tốc chạy song song với dòng sông Đông.
“‘Hey’ nào?” cậu đáp, cắt ngang đầu chiếc SUV đen khi người điều khiển xe ấy, một người mặc com lê tay đang cầm điện thoại, ra dấu tục tĩu với họ qua lớp kính màu.
“‘Hey’ mà bọn con trai các cậu hay nói ấy. Như khi cậu thấy Jace và Alec, cậu nói ‘hey’, và họ ‘hey’ lại. Nói ‘xin chào’ thì làm sao đâu?”
Cô nghĩ đã thấy cơ mặt của bạn hơi giật giật. “‘Xin chào’ nghe nữ tính lắm,” cậu giải thích. “Những người đàn ông thực sự thích nói ngắn gọn. Súc tích.”
“Vậy càng nam tính thì càng phải ít lời hả?”
‘Đúng.” Simon gật đầu. Ở phía bên kia, cô thấy sương mù sà thấp trên dòng sông Đông, phủ kín bờ sông bằng làn xương mù xám xịt. Mặt nước cũng mang màu chì, gờn gợn thành màu như kem nhờ những cơn gió mạnh thổi từng đợt đều đặn. “Đó là lý do vì sao những nhân vật phản diện chính trong phim khi gặp nhau, họ không nói gì hết, họ chỉ gật đầu. Cái gật đầu đó có nghĩ, ‘Tao là kẻ xấu, và tao nhận ra mày, cũng là một kẻ xấu,’ nhưng họ không nói gì vì họ là Wolverine và Magneto và giải thích lằng nhằng sẽ làm hỏng cái uy của họ.”
“Tôi không hiểu cậu đang nói gì,” Jace nói, vọng tới từ ghế sau.
“Tốt,” Calry nói, và nhận được nụ cười thoảng nhất từ Simon khi cậu rẽ về hướng cầu Manhattan, hướng về khu Manhattan và về nhà.
Khi họ tới nhà Clary, trời đã ngừng mưa. Những tia nắng đan quyện đốt tan dư vị sương mù, những vũng nước trên vỉa hè đang khô lại. Jace, Alec và Isabelle bắt Simon và Clary đợi bên xe trong khi họ đi kiểm tra, như Jace nói, “kiểm tra mức độ hoạt động của quỷ.”
Simon quan sát trong khi Ba Thợ Săn Bóng Tối đi vào lối đi hai bên trồng những bụi hoa hồng dẫn lên nhà. “Mức độ hoạt động của quỷ? Họ có thiết bị đo xem quỷ có ởtrong nhà tập yoga không á?”
“Không,” Clary hỏi, kéo chiếc mũ ẩm xuống để tận hưởng tia nắng mặt trời chiếu lên mái tóc bết nước. “Máy Cảm Ứng cho họ biết những con quỷ đó mạnh như thế nào – nếu như có quỷ.”
Simon có vẻ ấn tượng. “Cái này thật sự hữu ích đấy.”
Cô quay sang. “Simon, về chuyện tối qua…”
Cậu giơ tay chặn lại. “Chúng ta không nói về chuyện đó. Thật ra, là mình không muốn nói.”
“Hãy cho mình nói một điều.” Cô nói liến thoắng. “Mình biết khi cậu nói cậu yêu mình, điều mình nói lại không phải điều cậu muốn nghe.”
“Đúng. Mình luôn hy vọng khi mình nói ‘yêu’ một cô gái nào đó, cô gái đó sẽ trả lời mình là ‘em biết’, giống như Leia đã nói với Han trong phim Return of the Jedi”
“Nghe sến quá.” Clary nói, không thể ngừng được.
Simon lười.
“Xin lỗi,” cô nói. “Nhìn này, Simon, mình…”
“Không,” cậu nói. “Cậu nhìn đi Clary. Nhìn mình, thực sự thấy mình. Cậu làm được không?”
Cô nhìn. Nhìn vào đôi mắt đen, pha trộn thêm những màu sắc tươi ở ngoài viền con ngươi, nhìn đôi lông mày có phần không đều quen thuộc, hàng lông mi dài, mái tóc đen và nụ cười trừ cùng đôi tay búp măng nghệ sĩ, tất cả những gì thuộc về Simon, người là một phần của cô. Nếu phải nói thực, liệu cô có dám nói rằng cô không hề biết Simon yêu mình không? Hay chỉ là cô không biết cô sẽ làm gì nếu cậu yêu cô nhỉ?
Cô thở dài. “Nhìn qua ảo ảnh rất dễ. Con người mới khó nhìn thấu.”
“Chúng mình đều muốn thấy thứ chúng mình muốn thấy,” cậu bình thản nói.
“Không phải Jace,” cô nói, không ngăn được mình, khi nghĩ tới đôi mắt trong sáng không hề biết nao núng kia.
“Nhất là anh ta đấy.”
Cô nhíu mày. “Cậu làm sao lại…”
“Được rồi,” giọng Jace vọng tới, ngắt lời họ. Clary vội quay sang. “Bọn anh đã kiểm tra bốn góc chung quanh rồi – chẳng có gì. Mức độ hoạt động thấp. Có lẽ chỉ có vài Kẻ Lầm Đường và chúng sẽ không làm phiền tới chúng ta nếu chúng ta không chui vào tầng trên.”
“Và nếu chúng dám,” Isabelle nói, nụ cười sáng lấp lánh hệt như sợi roi, “bọn mình cũng sẵn sàng rồi.”
Alec lôi cái túi nặng từ sau xe xuống, vứt nó lên vỉa hè. “Sẵn sàng lên đường,” anh tuyên bố. “Đi đá đít quỷ nào!”
Jac nhìn anh ta mà cảm thấy là lạ. “Cậu ổn không đấy?”
“Ổn.” Không nhìn Jace, Alec bỏ cung và những mũi tên xuống mà cầm cây gậy lông vũ sáng bóng, với hai lưỡi dao loang loáng bật ra khi anh ta chạm nhẹ ngón tay vào. “Cái này tốt hơn.”
Isabelle lo lắng nhìn ông anh. “Nhưng cây cung…”
Alec ngắt lời. “Anh biết anh đang làm gì mà Isabelle.”
Cánh cung nằm ngang ghế sau, tỏa sáng dưới ánh mặt trời. Simon cầm lấy, rồi rụt tay lại khi một nhóm thiếu phụ đang cười đùa đẩy xe nôi ngang qua, hướng về phía công viên. Họ không để ý tới ba cô cậu vũ khí đầy mình đang ngồi xổm cạnh chiếc xe tải vàng. “Sao tôi lại thấy được mấy người nhỉ?” Simon hỏi. “Chuyện gì với phép thuật tàng hình của các cậu vậy?”
“Cậu nhìn thấy chúng tôi,’ Jace nói, “vì giờ cậu biết sự thực cái cậu đang nhìn.”
“Ờ há,” Simon nói. “Tôi cũng đoán vậy.”
Simon có cự nự đôi chút khi họ bảo cậu ở lại trông xe, nhưng nếu Jace nhấn mạnh tầm quan trọng của việc có một chiếc xe nổ máy đậu bên đường để tẩu thoát. “Ánh mặt trời là đòn chí từ với quỷ, nhưng nó không làm hại gì tới Kẻ Lầm Đường. Nếu chúng đuổi theo bọn tôi thì sao? Nếu chiếc xe bị kéo đi thì sao?”
Điều cuối cùng Clary thấy về Simon khi quay lại vẫy tay chào cậu lúc đứng trên hiên trước là đôi chân dài đặt trên bảng đồng hồ trong khi cậu lục tìm bộ sưu tập CD của Eric. Cô thở dài nhẹ nhõm. Ít nhất thì Simon cũng được an toàn.
Mùi hôi ập vào mặt cô ngay khi họ bước qua cửa trước. Một thứ mùi khó tả, giống như mùi trứng thối trộn cùng thịt lên giòi và tảo mục trên bãi cát nóng. Isabelle nhăn mũi và còn mặt Alec xanh lét, nhưng Jace trông như thể đang ngửi một loại nước hoa hiếm. “Quỷ ở đây,” anh nói, với niềm hân hoan lạnh lùng. “Cũng mới đây thôi.”
Clary bồn chồn nhìn anh. “Nhưng chúng không còn…”
“Không.” Anh lắc đầu. “Bằng không bọn anh đã cảm nhận thấy chúng. Tuy vậy.” Anh hất hàm về phía cửa nhà bà Dorothea, đóng kín mít không để cho lấy một tia sáng lọt qua. “Có lẽ bà ta sẽ phải trả lời vài câu hỏi, nếu hội Clave nghe tin bà ta vẫn đang tiếp vài con quỷ.”
“Em không nghĩ hội Clave thích thú bất cứ thì gì trong căn nhà này,”Isabelle nói. “Mà nghĩ kỹ lại, có lẽ bà ta sẽ thoát khỏi vụ này dễ dàng chúng ta đấy.”
“Họ sẽ không quan tâm miễn là cuối cùng chúng ta có được chiếc Cốc.” Alec liếc nhìn chung quanh, đôi mắt xanh quét qua sảnh ngoài nhỏ nhắn, cầu thang cong cong vẫn lên tầng trên, những vết ố trên tường.”Đặc biệt nếu chúng ta làm thịt vài Kẻ Lầm Đường trong khi lấy thánh vật.”
Jace lắc đầu. “Chúng ở tầng trên. Tớ đoán rằng chúng sẽ chẳng làm phiền chúng ta nếu chúng ta không cố bước vào.”
Isabelle thổi lọn tóc dính khỏi mặt và nhíu mày nhìn Clary. “Cậu còn đợi gì nữa?”
Clary bất giác nhìn sang Jace, anh cười nửa miệng với cô. Đi đi, đôi mắt anh nói.
Cô tiến qua sảnh tới trước cửa nhà Dorothea, bước từng bước cẩn trọng. Với phần giếng trời đen thui vì bụi bẩn và đèn ngoài hành lang vẫn hỏng, ánh sáng duy nhất đến từ ngọn đèn phù thủy của Jace. Không khí nóng nực và ngọt ngạt, những bóng đen dường như đang hiện ra trước mặt cô như những loài thực vật sinh trưởng nhanh một cách thần kỳ trong khu rừng ác mộng. Cô vươn tay gõ cửa nhà bà Dorothea, một lần nhẹ và rồi dùng nhiều lực hơn.
Cửa bật mở, để luồng ánh sáng rọi ra sảnh. Dorothea đứng đó, to lớn bệ vệ trong từng vệt vằn vện xanh xanh vàng vàng. Hôm nay bà ta đội khăn màu vàng dạ quang có đính một con chim hoàng yến được nhồi bông và viền áo chạy theo hình chữ chi. Đôi khuyên tai hình chúc đài thả lắc lư trên tóc, hai bàn chân to tướng để trần. Clary ngạc nhiên quá – trước đây cô chưa bao giờ thấy Dorothea đi chân trần, hoặc không mang gì khác hơn ngoài đôi dép lê lót nhung đã cũ xỉn.
Móng tay bà ta sơn màu hồng ngọc trai nhạt, rất hợp mốt.
“Clary!” bà ta reo lên và ôm Clary chặt cứng. Trong một thoáng Clary cố chống cự, bị lôi vào cùng mùi nước hoa nồng đượm, mớ vải nhung lòe xòe và chiếc khăn tua rua của bà Dorothea. “Lạy Chúa lòng lành, cháu gái,” bà phù thủy nói, lắc đầu tới khi bông tay lắc le như chuông gió trong ngày bão. “Lần cuối cùng ta gặp cháu, cháu đã biến mất qua Cổng Dịch Chuyển. Cháu đi tới đâu vậy?”
“Williamsburg ạ,” Clary nói và cố thở.
Đôi lông mày của Dorothea nhướn tít lên. “Và người ta nói không hề có hệ thống vận chuyển công cộng thuận tiện ở Brooklyn cơ đấy.” Và bà ta mở rộng cửa và ra hiệu cho cả bọn bước vào.
Nơi này vẫn chẳng thay đổi gì từ lần cuối Clary thấy nó: vẫn những lá bài tarot và quả cầu thủy tinh xếp trên bàn. Những ngón tay cô ngứa ngáy muốn động tới những lá bài, muốn cầm chúng lên và xem những gì giấu đằng sau những hình vẽ trơn mượt kia.
Dorothea vui vẻ ngồi xuống chiếc ghế tựa và nhìn những Thợ Săn Bóng Tối bằng đôi mắt đen như đôi mắt của con hoàng yến nhồi bông trên mũ. Mùi nến thơn cháy trên đĩa ở hai bên bàn dù sao cũng ít nhiều át đi mùi tanh hôi nồng nặc lan tới từng centimet của căn hộ. “Vậy là cháu chưa tìm thấy mẹ?” bà ta hỏi Clary.
Clary lắc đầu. “Chưa ạ. Nhưng cháu biết ai đã bắt cóc mẹ cháu.”
Đôi mắt Dorothea đảo từ Clary tới Alec và Isabelle, cô nàng đang săm soi tấm áp phích Chỉ tay Số Phận trên tường. Jace, tỏ ra cực kỳ bàng quan trong vai trò vệ sĩ, ngồi ngả ngớn trên tay ghế. Hài lòng vì chẳng có món đồ nào bị tổn hại, Dorothea quay lại nhìn Clary. “Có phải là…”
“Valentine ạ,” Clary xác nhận. “Đúng ạ.”
Dorothea thở dài. “Ta đã lo sợ điều này.” Bà ta ngồi dựa lên mấy cái đệm. “Cháu biết hắn muốn gì từ mẹ cháu không?”
Nghe thế Jace kêu lên một tiếng khe khẽ, gần như không nghe thấy – giống như một tiếng tặc lưỡi . Đôi tai Dorothea dựng lên như tài mèo. “Có gì vui sao, cậu bé?”
“Bà thì biết gì nào?” anh nói. “Ý là về tình yêu ấy,”
Dorothea đặt hai bàn tay trắng mềm mại lên lòng. “Hơn là cậu nghĩ đấy,” bà ta nói. “Không phải ta đã đọc cho cậu về lá trà sao, Thợ Săn Bóng Tối? Cậu đã phải lòng nhầm người chưa thế?”
Jace nói, “Không may là, thưa mẹ Bề Trên, tình yêu đích thực của đời con vẫn là con mà thôi.”
Nghe vậy Dorothea cười rú lên. “Ít ra thì,” bà nói, “cậu không phải lo bị từ chối, Jace Wayland ạ.”
“Không hẳn. Tôi thi thoảng cũng từ chối bản thân, chỉ cho vui ấy mà.”
Dorothea lại cười rú. Clary ngắt lời. “Bà hẳn phải thắc mắc nguyên do chúng cháu tới đây, Quý Bà Dorothea.”
Dorothea thôi cười mà lau mắt. “Làm ơn đi cháu,” bà bảo, “cứ tự nhiên gọi ta bằng daanh xưng thích hợp, như cậu kia đã làm kìa. Cháu có thể gọi ta là Phu nhân. Với lại nghĩ,” bà ta nói thêm, “cháu tới đây để cho ta bớt cô quạnh. Đúng không?”
“Cháu không có thời gian để giúp ai đó bớt cô đơn. Cháu phải giúp mẹ cháu, và để làm thế cháu cần một số thứ.”
“Và đó là gì nào?”
“Một thứ được gọi là Cốc Thánh,” Clary nói, “và Valentine nghĩ mẹ cháu có nó. Vì thế hắn bắt cóc mẹ cháu.”
Dorothea có vẻ thực sự, thực sự bị choáng. “Chiếc Cốc Thiên Thần ư?” bà ta ngờ vực hỏi lại. “Chiếc cốc của Raziel, ngài đã dùng để trộn máu của Đấng Thiên Thần và máu người rồi đưa cho một người uống, tạo ra Thợ Săn Bóng Tối đầu tiên đấy ư?”
“Thế quái nào hắn lại nghĩ Jocelyn có nó chứ?” Dorothea nói. “Jocelyn, chứ không phải ai khác?” Bà ta đã nhận ra trước khi Clary kịp trả lời. “Vì mẹ cháu không hề là Jocelyn Fray, tất nhiên rồi,” bà nói. “Cô ta là Jocelyn Fairchild, vợ hắn. Người mà mọi người tưởng đã chết. Mẹ cháu đã lấy chiếc Cốc và chạy trốn, đúng không?”
Có gì đó lóe lên trong mắt bà phù thủy, nhưng khi bà ta hạ mi mắt xuống rất nhanh nên Clary nghĩ chắc mình tưởng tượng ra. “Vậy,” Dorothea nói, “cháu có biết giờ mình phải làm gì không? Dù mẹ cháu giấu nó ở đâu, cũng không thể dễ mà tìm ra được – kể cả nếu cháu muốn tìm ra nó. Valentine sẽ làm nhiều điều kinh khủng khi có được chiếc Cốc.”
“Cháu muốn tìm ra nó,” Clary nói. “Chúng cháu muốn…”
Jace nhẹ nhàng ngắt lời. “Bọn này biết nó ở đâu,” anh nói. “Chỉ còn việc lấy lại nó thôi.”
Đôi mắt Dorothea mở lớn. “Vậy, nó ở dâu?”
“Ở đây,” Jace nói, giọng tự nhiên tới mức Isabelle và Alec đang đi vẩn vơ xem xét giá sách cũng phải quay lại nhìn.
“Ở đây ư? Ý cậu là cậu cầm theo nó hả?”
“Không hẳn đâu, thưa Phu nhân” Jace nói, người mà. Clary cảm thấy, đang tự thỏa mãn mình bằng thái độ thực sự đáng sợ kia. “Ý tôi chính bà đang có nó.”
Miệng Dorothea ngậm chặt lại. “Không vui đâu,” bà ta nói, quá dữ dội khiến Clary lo rằng mọi chuyện đang diễn biến theo chiều hướng xấu đến tồi tệ. Vì sao Jace luôn thích đi chọc giận người khác chứ?
“Đúng là bà đang giữ nó,” Clary vội vàng xen vào, “nhưng không…”
Dorothea từ ghế tựa đứng thẳng dậy vươn hết chiều cao lừng lững của mình, quắc mắt trừng trừng nìn xuống cả hai. “Các cháu nhầm rồi,” bà ta lạnh lùng cất tiếng. “Nhầm chuyện tưởng tượng rằng ta có nó, và nhầm vì dám tới đây và bảo ta là kẻ dối trá.”
Tay Alec đưa lên thanh trượng. “Ôi trời,”anh lầm rầm.
Bối rối, Clary lắc đầu.“Không,” cô nói liến thoắng, “cháu không bảo bà nói dối, cháu thề. Cháu chỉ nói chiếc Cốc ở đây, nhưng bà không hề hay biết.”
Quý Bà Dorothea nhìn cô. Đôi mắt, gần như khuất dưới những nếp nhăn của khuôn mặt, cứng ngắc như đá cẩm thạch. “Giải thích đi,” bà nói,
“Cháu đang nói mẹ cháu giấu nó ở đây,”Clary nói. “Nhiều năm về trước. Mẹ cháu chưa bao giờ nói với bà vì mẹ cháu không muốn liên lụy tới bà.”
“Vậy có thể cô ấy đưa nó cho bà, nhưng dưới dạng một vật khác,” Jace giải thích, “như một món quà.”
Dorothea ngơ ngác nhìn anh.
Bà ta không nhớ sao? Clary bối rối nghĩ. “Bộ bài Tarot,” cô nói. “Những lá bài mà mẹ cháu vẽ cho bà.”
Ánh mắt bà phù thủy chiếu đến những lá bài được gói trong lớp khăn lụa đặt trên bàn. “Những lá bài ư?” Trong lúc cái nhìn của bà ta lớn dần, Clary bước tới bàn và cầm bộ bài lên. Chúng ấm và khá trơn. Giờ đây, vì trước kia cô không thể làm được, cô cảm nhận được năng lượng từ những chữ rune vẽ ở mặt sau đập dồn qua dầu ngón tay mình. Cô tìm lá bài Ace of Cups và lôi ra, đặt những lá bài còn lại xuống bàn.
“Nó đây,” cô nói.
Tất cả đang nhìn cô, chờ đợi, im lặng tuyệt đối. Cô chầm chậm lật lá bài lại và nhìn lại những nét vẽ của mẹ: hình hai bàn tay thon thon, những ngón tay năm quanh chiếc Cốc Thánh bằng vàng.
“Jace,” cô nói. “Đưa thanh stele cho em.”
Anh ấn thanh stele vào lòng bàn tay cô, cảm giác âm ấm và sống động. Cô lật lá bài lại và lần theo những chữ rune trên mặt sau – chỗ này một đường xoắn chỗ kia một đường thẳng và chúng mang ý nghĩa hoàn toàn khác biệt. Khi cô quay lá bài lại, bức hình có chút thay đổi: Những ngón tay đã thả chân Cốc, và bàn tay dường như đang dâng chiếc Cốc cho cô mà nói, Đây, cầm lấy đi.
Cô nhét thanh stele vào túi. Rồi, dù phần tranh vẽ trên lá bài không lớn hơn tay cô, cô nhét vào như thể nhét vào một khe hở rộng. Tay cô cầm chặt lấy chân Cốc - những ngón tay nắm chặt lấy – và khi rút tay lại – chiếc cốc nằm gọn trong tay, cô nghĩ đã nghe thấy những tiếng thở dài thật khẽ trước khi lá bài, giờ trống không và trắng tinh, biến thành tro bụi và cháy qua kẽ ngón tay cô xuống sàn nhà trải thảm.