Trong một lúc lâu sau khi chú Luke nói xong, trong phòng hoàn toàn im lặng. Âm thanh duy nhất là tiếng nước tí tách nhỏ xuống những bức tường đá. Cuối cùng, chú nói:
“Nói gi đi, Clary.”
“Chú muốn cháu nói gì đây?”
Chú thở dài. “Cháu có thể nói rằng, cháu hiểu?”
Clary nghe thấy rõ ràng tiếng máu mình chảy trong tai. Cô có cảm giác cuộc sống của cô giống như được xây trên một lớp băng mỏng tang như giấy, và giờ lớp băng đó bắt đầu nứt dần, đe dọa sẽ nhấn chìm cô xuống vùng tối lạnh lẽo bên dưới. Bên dưới màn nước đen tối, cô nghĩ, nơi những bí mật của mẹ cô trôi theo dòng chảy, nơi chứa đựng những gì còn lại đã bị lãng quên của một cuộc đời như con tàu đắm.
Cô ngước nhìn chú Luke. Chú dường như đang run rẩy, nhòe đi, như thể đang nhìn cô qua cặp kính mờ. “Bố cháu,” cô nói. “Cái bức hình mẹ cháu giữ trên mặt lò sưởi...”
“Không phải bố cháu,” chú Luke nói.
“Vậy ông ấy có tồn tại không?” giọng Clary cao lên. “Liệu từng có một John Clark nào không, hay đó chỉ là mẹ cháu dựng lên?”
“John Clark có tồn tại. Nhưng ông ấy không phải bố cháu. Ông ấy là con của hai người hàng xóm sống cạnh nhà mẹ cháu hồi mẹ cháu còn sống ở East Village. Cậu ta chết trong vụ tai nạn xe, đúng như mẹ cháu bảo, nhưng mẹ cháu chưa từng gặp mặt. Mẹ cháu có bức hình vì hai người hàng xóm nhờ mẹ cháu vẽ hình cậu ấy mặc quân phục. Mẹ cháu trả lại bức chân dung nhưng giữ lại tấm hình và giả bộ người đàn ông đó là bố cháu. Chú nghĩ mẹ cháu tưởng như thế cháu sẽ thấy dễ chấp nhận hơn. Dẫu sao thì, nếu mẹ cháu nói với cháu rằng bố cháu đã bỏ trốn hay biến mất, cháu sẽ muốn tìm bố. Một người chết...”
“Sẽ không phản bác lại những lời nói dối,” Clary cay đắng nói nốt hộ chú. “Chẳng nhẽ mẹ cháu không thấy như vậy là sai sao, sau bao nhiêu năm đó, để cho cháu tưởng bố cháu đã chết, trong khi người bố thật...”
Chú Luke không nói gì, để cố tự mình tìm cách nói hết câu, để cô tìm ra cái ý tưởng mà ngay cả trong mơ cô cũng không tài nào tưởng tượng nổi.
“Là Valentine.” Giọng cô run run. “Đó là điều chú đang nói với cháu, đúng không? Rằng Valentine... từng là... - là - là bố cháu?”
Chú Luke gật đầu, những ngón tay đan chặt của chú là dấu hiệu duy nhất của sự căng thẳng mà chú đang cảm nhận. “Đúng.”
“Ôi Chúa ơi.” Clary nhảy dựng lên, không thể ngồi yên nổi nữa. Cô đi về phía những thanh xà lim. “Không thể nào. Không thể nào.”
“Clary, làm ơn đừng buồn...”
“Đừng buồn ư? Chú đang nói với cháu rằng bố cháu là người về cơ bản là chúa tể hắc ám, và chú muốn cháu không buồn?”
“Lúc đầu hắn ta không ác,” chú Luke nói, nghe có vẻ thấy có lỗi.
“Ồ, cháu cầu được khác đi. Cháu nghĩ ông ta hoàn toàn ác. Tất cả những gì ông ấy đang ươm trồng về việc làm nòi giống loài người trong sạch và tầm quan trọng của dòng máu thuần khiết - ông ta giống như một trong những tay chính trị gia da trắng đáng sợ kia. Và cả hai người hoàn toàn tin lời ông ấy.”
“Chú không phải người nói chuyện về những Kẻ thuộc Thế Giới Ngầm ‘gian xảo’ chỉ một vài phút trước,” chú Luke bình tĩnh đáp. “Hay về việc không thể tin họ.”
“Không hề giống nhau!” Clary nghe thấy tiếng khóc trong giọng nói. “Cháu có một người anh,” cô nói tiếp, giọng nghẹn lại. “Ông bà nữa. Họ đều chết?”
Chú Luke gật đầu, mắt nhìn xuống bàn tay lớn đang mở đặt trên đầu gối. “Họ đã chết.”
“Jonathan,” cô nhẹ nhàng gọi. “Anh ấy lớn hơn cháu? Lớn hơn một tuổi?”
Chú Luke không nói gì.
“Cháu luôn muốn có anh,” cô nói.
“Đừng,” chú buồn bã nói. “Đừng hành hạ bản thân. Cháu có thể thấy vì sao mẹ cháu giấu cháu tất cả rồi, đúng không? Có lợi gì đâu nếu cháu biết cháu đã mất những gì trước khi kịp chào đời chứ?”
“Cái hộp đó,” Clary nói, đầu óc làm việc điên cuồng. “Với chữ J.C bên trên. Jonathan Christopher. Đó là cái khiến mẹ cháu khóc, đó là lọn tóc của người đó - của anh cháu, không phải của bố cháu.”
“Đúng.”
“Và khi chú nói ‘Clary không phải Jonathan,’ chú nói tới anh cháu. Mẹ cháu luôn bảo vệ cháu quá mức vì bà đã có một đứa con bị chết.”
Trước khi chú Luke kịp trả lời, cửa xà lim lại lanh canh mở ra và Gretel bước vào. Khi nghe tới ‘hộp thuốc,’ Clary nghĩ ngay tới chiếc hộp nhựa với hình Chữ thập đỏ trên đó, nhưng hóa ra lại là một khay gỗ lớn, bày những cuộn gạc được xếp gọn, những cái bát đựng thứ chất lỏng gì đó đang bốc khói và thảo dược tỏa ra mùi chua chua hăng hắc. Gretel đặt khay xuống cạnh tấm phản và ra hiệu cho Clary ngồi xuống, cô miễn cưỡng làm theo.
“Một cô gái ngoan,” người phụ nữ sói nói, nhúng miếng gạc vào trong một cái bát và đưa lên mặt Clary. Cô ta nhẹ nhàng lau hết vết máu khô. “Chuyện gì đã xảy ra với em vậy?” cô ta chê trách hỏi, như thể cô ta đang nghi rằng Clary đã cầm cái nạo pho mát mài lên mặt.
“Chú cũng đang muốn biết đây,” chú Luke hỏi, khoanh tay quan sát.
“Hugo tấn công cháu,” Clary cố không nhăn mặt khi thứ chất lỏng sền sệt chấm lên vết thương.
“Hugo nào?” chú Luke chớp mắt.
“Hugo con chim của Hodge. Cháu nghĩ nó là con chim bác ấy nuôi. Cũng có thể là Valentine.”
“Hugin,” chú Luke khe khẽ nói. “Hugin và Munin là hai con chim cảnh của Valentine. Tên của chúng có nghĩa là ‘Suy Nghĩ’ và ‘Trí Nhớ’.”
“À, chúng nên có nghĩa là ‘Tấn công’ và ‘Giết chóc’.” Clary nói. “Hugo suýt cào toạt mắt cháu ra.”
“Nó được huấn luyện để làm chuyện đó.” Chú Luke đang gõ ngón tay lên tay bên kia. “Hodge hẳn đã nuôi nó sau vụ Nổi Loạn. Nhưng nó vẫn là con vật cưng của Valentine.”
“Cũng như Hodge vậy,” Clary nói, nhíu mày khi Gretel lau tới vết rạch dài trên tay cô, giờ đang dính đất bẩn và máu khô. Rồi Gretel bắt đầu băng chặt lại.
“Clary...”
“Cháu không muốn nói về quá khứ nữa,” cô dõng dạc tuyên bố. “Cháu muốn biết giờ chúng ta sẽ làm gì. Giờ Valentine đã có được mẹ cháu, Jace... và chiếc Cốc. Còn chúng ta chẳng có gì.”
“Chú sẽ không nói chúng ta không có gì đâu,” chú Luke nói. “Chúng ta có một đàn sói mạnh. Vấn đề là chúng ta không biết Valentine ở đâu.”
Clary lắc đầu. Những sợi tóc xòa xuống mắt và cô bực tức vén lên. Chúa ơi, cô thật bẩn thỉu. Điều mà cô muốn hơn mọi điều khác - gần như hơn mọi thứ khác - là được tắm. “Valentine có nơi ẩn nấp nào không? Một hang ổ bí mật?”
“Nếu hắn có,” chú Luke nói, “hắn đã giữ bí mật thật kín rồi.”
Gretel thả tay Clary, để cho cô thận trọng nhúc nhích cánh tay. Thứ thuốc mỡ màu xanh lè Gretel đã bôi lên vết thương có tác dụng giảm đau, nhưng cánh tay vẫn cứng đơ và vụng về. “Đợi một chút,” Clary nói.
“Chẳng hiểu sao con người hay sử dụng cách nói đó,” chú Luke nói, chẳng với cụ thể một ai. “Chúng chẳng đi đâu cả.”
“Liệu Valentine có thể ở New York không nhỉ?”
“Có thể.”
“Khi cháu thấy hắn ở Học Viện, hắn đi qua Cổng Dịch Chuyển. Magnus nói chỉ có hai Cổng Dịch Chuyển ở New York. Một ở nhà Dorothea, một ở Renwick’s. Cánh cổng tại nhà Dorothea đã bị hủy, mà cháu không thấy hắn có thể trốn ở nơi nào khác, vì thế...”
“Renwick’s?” chú Luke có vẻ bối rối. “Renwick không phải một cái tên của Thợ Săn Bóng Tối.”
“Nhưng nhỡ Renwick không phải một con người thì sao?” Clary nói. “Nếu nó là một địa điểm chẳng hạn? Renwick. Như một nhà hàng, hoặc... một khách sạn hay gì đó.”
Chú Luke đột ngột mở to mắt. Chú quay sang Gretel, người đang tiến về phía chú với khay thuốc trên tay. “Đưa cho tôi cuốn danh bạ điện thoại,” chú nói.
Cô ta dừng lại, giơ cái khay về phía chú với vẻ trách móc. “Nhưng, thưa thủ lĩnh, vết thương của ngài...”
“Quên vết thương của tôi đi và cầm cuốn danh bạ tới đây giùm tôi,” chú quát. “Chúng ta đang ở trong đồn cảnh sát. Chắc hẳn cô sẽ tìm ra kha khá cuốn danh bạ cũ đấy.”
Bực bội khó chịu ra mặt, Gretel đặt cái khay xuống và đi ra khỏi phòng. Chú Luke nhìn Clary qua cặp kính hơi trễ xuống sống mũi. “Tư duy tốt đấy.”
Cô không trả lời. Bụng cô đang xoắn lại thành nút. Cô thấy mình đang cố thở qua nút thắt đó. Suy nghĩ bắt đầu hình thành gây ngứa ngáy ngoài rìa trí não, như đang đợi cô lãnh hội nó một cách hoàn toàn. Nhưng cô đã ngay lập tức ép nó xuống và quên đi. Cô không thể tiêu tốn nguồn lực, năng lượng, cho bất cứ thứ gì ngoài những vấn đề cần giải quyết ngay tức khắc.
Gretel trở lại với cuốn những trang vàng có vẻ bị ướt và nhét vào tay chú Luke. Chú đứng đọc một hồi trong khi cô gái sói tấn công vết thương bên sườn chú với băng gạc và những thứ thuốc mỡ dinh dính. “Có bảy Renwick trong cuốn danh bạ,” chú nói. “Không có nhà hàng, khách sạn, hay địa điểm nào khác.” Chú đẩy kính lên, gọng kính ngay lập tức trễ xuống. “Họ không phải Thợ Săn Bóng Tối,” chú nói, “và chú thấy có vẻ không có khả năng Valentine lại đặt trụ sở trong nhà người thường hoặc nơi trú ngụ của một cư dân Thế Giới Ngầm nào đó. Nhưng, có thể...”
“Chú có điện thoại không?” Clary ngắt lời.
“Chú không mang theo,” chú Luke, vẫn cầm cuốn danh bạ, liếc nhìn Gretel. “Cô đi lấy điện thoại dùm tôi nhé?”
Với tiếng khụt khịt chán ghét, cô ta ném miếng vải dính máu đang cầm xuống nền nhà và đi ra khỏi phòng lần thứ hai. Chú Luke đặt cuốn danh bạ xuống bàn, cầm cuốn gạc, và bắt đầu cuốn quanh vết thương quanh mạng sườn. “Xin lỗi,” chú nói khi Clary nhìn. “Chú biết là kinh rồi.”
“Nếu chúng ta tóm được Valentine,” cô đột ngột hỏi, “chúng ta có giết hắn không?”
Chú Luke suýt làm rơi cuộn gạc. “Cái gì?”
Cô nghịch những sợi chỉ thừa thò ra khỏi túi quần bò. “Hắn giết anh cháu. Hắn giết ông bà cháu. Đúng không?”
Chú Luke đặt cuộn gạc lên bàn và kéo áo xuống. “Và cháu nghĩ giết hắn sẽ được gì nào? Xóa đi những điều đó?”
Gretel trở về trước khi Clary kịp trả lời. Cô ta đeo gương mặt của kẻ sẵn sàng tử vì đạo và đưa cho chú Luke một chiếc điện thoại kiểu cũ khá thô kệch. Clary tự hỏi ai trả tiền điện thoại đây.
Clary giơ tay. “Để cháu gọi.”
Chú Luke có vẻ lưỡng lự. “Clary...”
“Đó là về Renwick. Chỉ một giây thôi.”
Chú mệt mỏi đưa điện thoại cho cô. Cô ấn số và hơi quay người đi để cho mình chút ảo tưởng về sự riêng tư.
Simon nhấc máy ở chuông thứ ba. “A lô.”
“Mình đây.”
Giọng cậu cao lên quãng tám. “Cậu ổn không?”
“Mình ổn. Vì sao? Cậu nghe tin gì từ Isabelle à?”
“Không. Sao mình lại nghe tin từ Isabelle? Có chuyện gì sao? Alec có chuyện sao?”
“Không,” Clary nói, không muốn nói dối rằng Alec đã ổn. “Không phải Alec. Nghe này, mình cần cậu lên Google tìm cho mình cái này.”
Simon khụt khịt. “Cậu đùa mình rồi. Họ không có máy tính ở đó sao? Cậu biết không, không cần trả lời đâu.” Cô nghe có tiếng cửa mở và tiếng meo meo của con mèo mà mẹ Simon nuôi bị đẩy từ chỗ nằm trên bàn phím máy tính xuống. Cô tưởng tượng khá rõ ràng ra cảnh Simon ngồi xuống, những ngón tay di chuyển nhanh nhẹn trên bàn phím. “Cậu muốn mình tìm gì nào?”
Cô nói. Cô cảm nhận được ánh mắt lo lắng của chú Luke khi cô nói chuyện. Chú cũng nhìn cô hệt như vậy vào năm cô mười một tuổi, bị cảm và sốt cao. Chú chườm đá cho cô và đọc cho cô nghe những cuốn truyện cô yêu thích, giả đủ các giọng.
“Cậu nói đúng,” Simon nói, đánh thức cô dậy khỏi dòng suy tưởng. “Đó là một địa điểm. Hoặc ít nhất cũng từng là. Giờ nó bị bỏ hoang rồi.”
Bàn tay đầy mồ hôi trượt trên điện thoại. Cô nắm chặt hơn. “Nói cho mình nghe xem.”
“Trại thương điên nổi tiếng nhất, nhà tù, bệnh viện xây dựng trên đảo Roosevelt vào những năm 1800,” Simon đọc đều đều. “Bệnh viện Renwick Smallpox được thiết kế bởi kiến trúc sư Jacob Renwick và ban đầu được dùng làm nơi cách ly những nạn nhân nghèo nhất của dịch đậu mùa bùng nổ tại Manhattan. Đa số những người được đưa vào quần thể kiến trúc kiểu Gothic rùng rợn này đều chết trong bốn bức tường đó. Suốt thế kỷ tiếp theo bệnh viện bị bỏ hoang không tu sửa. Di tích này hiện bị cấm lui tới.”
“Được rồi, đủ rồi.” Clary nói, trái tim đập rộn ràng. “Phải là nó rồi. Đảo Roosevelt Island đúng không? Người ta không sống ở đó à?”
“Không phải ai ai cũng sống ở Slope, thưa công chúa,” Simon nói, rõ ràng là muốn mỉa mai cô. “Mà cậu có lại cần mình đưa đi hay gì không?”
“Không! Mình ổn, mình không cần gì đâu. Mình chỉ muốn thông tin thôi.”
“Được rồi.” Clary nhận thấy, cậu bạn thân có vẻ bị tổn thương đôi chút, nhưng cô tự nhủ với mình rằng sẽ không sao đâu. Cậu sẽ an toàn ở nhà, và đó mới là điều quan trọng.
Cô cúp máy, quay lại chú Luke. “Có một bệnh viện bị bỏ hoang ở cực nam đảo Roosevelt mang tên Renwick. Cháu nghĩ Valentine ở đó.”
Chú Luke lại đẩy kính. “Đảo của Blackwell. Tất nhiên rồi?”
“Sao chú lại nói đó là đảo của Blackwell? Cháu đã nói...”
Chú khua tay ngắt lời cô. “Từng có thời đảo Roosevelt mang tên đó. Blackwell’s. Nó thuộc về một dòng họ Thợ Săn Bóng Tối lâu đời. Chú phải đoán ra chứ nhỉ.” Chú quay sang Gretel. “Gọi Alaric. Chúng ta cần mọi người quay lại đây ngay khi có thể.” Môi chú cong lên thành một nụ cười nửa miệng khiến Clary liên tưởng tới nụ cười băng giá của Jace trong những trận đánh. “Bảo họ chuẩn bị chiến đấu.”
Họ đi qua một mê cung lằng nhằng như mạch điện gồm những xà lim và hành lang của một nơi từng là hành lang lớn của một trạm cảnh sát và tiến ra đường. Tòa nhà giờ đã bị bỏ không, những tia nắng của buổi chiều muộn đã tạo những cái bóng kỳ lạ lên những chiếc bàn để không, những cái tủ bị khóa mang những cái lỗ đen lỗ chỗ do mọt ăn, những viên gạch nứt vỡ lát sàn tạo thành khẩu hiệu của NYPD: Fidelis ad Mortem.
“Lòng tin dẫn đến cái chết,” chú Luke nói, nhìn theo mắt cô.
“Để cháu đoán nhé,” Clary nói. “Ở bên trong nó là một trạm cảnh sát bị bỏ hoang; từ bên ngoài, người thường chỉ thấy đây là một khu chung cư đã bị dời đi, một khu đất trống, hoặc...”
“Thực ra từ ngoài nhìn vào nó giống một nhà hàng Trung Hoa,” chú Luke nói, “Chỉ nhận đặt hàng, không phục vụ ăn uống tại chỗ.”
“Một nhà hàng Trung Hoa?” Clary không thể tin nổi.
Chú nhún vai. “Ừ, chúng ta ở khu phố Trung Hoa. Đây từng là tòa nhà của Đồn số hai đó.”
“Mọi người hẳn sẽ thấy kỳ khi không thấy số điện thoại đặt hàng.”
Chú Luke cười. “Có số điện thoại chứ. Chỉ là bọn chú ít nhấc máy thôi. Thi thoảng, nếu họ buồn, một vài con sói con sẽ đi giao món thịt lợn mu shu cho một ai đó.”
“Chú đùa rồi.”
“Không. Có chút tiền típ cũng giúp được kha khá đấy.” Chú mở cửa trước, để cho luồng ánh nắng tràn vào.
Vẫn không biết chú nói thật hay đùa, Clary đi theo chú Luke vượt qua đường Baxter tới nơi chú đậu xe. Nội thất của chiếc xe bán tải tạo cho cô cảm giác thân quen thoải mái. Mùi hương nhàn nhạt của mạt gỗ cùng giấy cũ và xà bông, hai viên xúc xắc nhồi bông màu vàng đã bạc màu mà cô cho chú khi lên mười vì trông chúng giống những viên xúc xắc vàng treo trên gương sau của con tàu vũ trụ Millenium Falcon trong phim Star Wars. Những vỏ kẹo cao su đã vứt đi cùng những cốc cà phê rỗng nằm lăn lóc trên sàn xe. Clary ngồi vào ghế hành khách, thở dài và dựa lưng xuống. Cô mệt mỏi hơn dám thừa nhận.
Chú Luke đóng cửa. “Ở nguyên đó nhé.”
Cô quan sát trong khi chú nói chuyện cùng Gretel và Alaric, hiện đang đứng trên bậc thềm của trạm cảnh sát cũ, kiên nhẫn chờ đợi. Clary tự giải khuây bằng cách lúc tập trung lúc lơ đễnh nhìn họ, quan sát ảo ảnh xuất hiện rồi biến mất. Lúc đầu nó là trạm cảnh sát cũ, lúc sau nơi đó biến thành mặt trước một cửa hàng ọp ẹp với mái hiên màu vàng có chữ JADE WOLF CHINESE CUISINE.
Chú Luke đang vung vẩy tay với sói hai và sói ba và chỉ xuống đường. Chiếc bán tải của chú đỗ đầu hàng dài xe tải, mô tô, xe Jeep và thậm chí một chiếc xe buýt đón học sinh cũ kỹ trông như sắp long hết cả. Hàng phương tiện trải dài suốt khối nhà đến quành cả qua góc đường. Đoàn hộ tống của người sói. Clary tự hỏi sao họ xin được, mượn được, trộm được hay trưng dụng được từng đó xe trong một khoảng thời gian quá ngắn. Nhưng dù sao, ít nhất họ không phải chui tất vào tàu cao tốc.
Chú Luke nhận một túi giấy màu trắng từ Gretel, với một cái gật đầu, chú trở về chiếc xe bán tải. Chui cái thân gầy cao vào sau vô lăng, chú đưa cô cái túi. “Cháu phụ trách cái này.”
Clary ngờ vực nhìn vào. “Cái gì thế? Vũ khí ạ?”
Vai chú Luke run lên vì cười không ra tiếng. “Thực ra là bánh bao nóng hổi mới ra lò,” chú nói và lùi xe xuống đường. “Và cả cà phê nữa.”
Clary xé túi khi họ tiến lên phố, dạ dày sôi ùng ục. Cô xé miếng bánh, cảm nhận vị thịt lợn mằn mặn trên đầu lưỡi và lớp bột dai dai. Cô uống một ngụm cà phê đen ngọt lịm để nuốt xuống, và đưa một cái bánh bao cho chú Luke. “Chú ăn không?”
“Có.” Thật gần giống như thời xưa, Clary nghĩ, khi họ lái xe vào đường Canal, mua vài túi bánh bao nóng từ tiệm bánh Golden Carriage Bakery và ăn hết một nửa khi lái xe qua cầu Manhattan để về nhà.
“Vậy kể cho chú nghe về cậu Jace kia nào,” chú Luke nói.
Clary suýt nghẹn. Cô với lấy cốc cà phê, dùng nước nóng để chặn cơn ho. “Anh ấy làm sao ạ?”
“Cháu có biết Valentine định làm gì cậu bé đó không?”
“Không ạ.”
Chú Luke nhíu mày khi nhìn phải mặt trời đang lặn. “Chú nghĩ Jace là một trong những đứa trẻ nhà Lightwood?”
“Không.” Clary ăn chiếc bánh bao thứ ba. “Họ cậu ấy là Wayland. Bố cậu ấy là...”
“Michael Wayland?”
Cô gật đầu. “Và khi Jace mười tuổi, Valentine đã giết chú ấy. À, chú Michael ạ.”
“Đó chắc chắn là việc hắn sẽ làm rồi,” chú Luke nói. Giọng chú vang lên đều đều, nhưng có gì đó khiến Clary phải liếc sang. Chú không tin cô sao?
“Jace đã thấy bố chết,” cô nói thêm, như thể để làm rõ nghĩa thêm cho câu trước.
“Thật tệ,” chú Luke nói. “Khổ thân thằng nhỏ.”
Họ đang lái xe qua Cầu Đường 59. Clary liếc xuống nhìn dòng sông chuyển sang màu vàng và đỏ máu nhờ ánh mặt trời sắp tàn. Cô thoáng thấy cực nam của đảo Roosevelt từ đây, dù chỉ là đường nét mơ hồ từ phương bắc. “Anh ấy cũng không sao đâu,” cô nói. “Nhà Lightwood chăm sóc anh ấy rất tốt.”
“Chú biết. Họ rất thân với Michael Wayland,” chú Luke nhận xét trong khi tạt xe qua làn bên trái. Từ gương chiếu hậu Clary có thể thấy bầu đoàn xe đi theo cũng bắt chước rẽ theo. “Họ sẽ muốn chăm sóc con trai Michael.”
“Vậy chuyện gì xảy ra khi mặt trăng lên?” cô hỏi. “Vậy tất cả các chú sẽ biến thành sói hay sao ạ?”
Miệng chú Luke giật giật. “Không hẳn. Chỉ những người còn trẻ, những người vừa mới Biến Đổi, không thể kiểm soát sự biến hình. Hầu hết bọn chú đã học được cách, sau nhiều năm. Giờ chỉ có trăng tròn mới có thể tác động tới sự Biến Đổi của chú.”
“Vậy khi trăng chưa tròn, chú có cảm thấy sói một chút thôi?” Clary hỏi.
“Cháu có thể nói vậy.”
“Ừm, chú có thể đi trước và thò đầu ra khỏi cửa sổ nếu muốn.”
Chú Luke cười. “Chú là người sói, không phải một con chó tha mồi màu vàng.”
“Chú làm sói đầu đàn bao lâu rồi?” cô đột nhiên hỏi.
Chú Luke ngập ngừng. “Khoảng một tuần.”
Clary quay phắt sang nhìn. “Một tuần?”
Chú thở dài. “Chú biết Valentine đã bắt mẹ cháu đi,” chú nói mà không thay đổi ngữ điệu nhiều. “Chú biết chú có rất ít cơ hội chống lại hắn một mình và chú không thể mong gì sự hỗ trợ của Clave. Chú mất một ngày để tìm ra đàn người sói gần nhất.”
“Chú giết sói đầu đàn để cướp vị trí?”
“Đó là cách nhanh nhất chú có thể nghĩ ra để có kha khá đồng minh trong một khoảng thời gian ngắn,” chú Luke nói, giọng không có chút hối hận nào, dù chẳng cũng chẳng tự hào gì. Cô nhớ lần theo dõi chú trong nhà, cô để ý thấy những vết cào sâu trên tay và mặt chú và cách chú nhăn mặt khi dùng tới tay. “Chú đã từng làm thế rồi. Chú khá chắc mình có thể làm lại.” Chú nhún vai. “Mẹ cháu thì biến mất. Chú biết chú sẽ khiến cháu ghét chú. Nhưng chú chẳng còn gì mất.”
Clary gác chân lên mặt đồng hồ. Qua lớp kính chắn gió đã nứt, bên trên đầu ngón chân, mặt trăng đã lên qua đầu. “Thôi,” cô nói. “Giờ thì chú có đấy.”
Bệnh viện ở cực nam đảo Roosevelt được chiếu sáng vào đêm, những đường nét mờ mờ ảo ảo của nó rõ ràng gây cho người ta cảm giác tò mò đối lập hoàn toàn với dòng hải lưu đen và ánh sáng rực rỡ hơn của Manhattan. Chú Luke và Clary im lặng khi chiếc xe đi men theo hòn đảo nhỏ, khi con đường rải nhựa đường chuyển thành đường rải sỏi và cuối cùng là đường đất. Con đường đi men theo hàng rào mắt cao cao cong cong, trên đó có gắn những vòng xoăn dây thép gai giống như những cuộn ruy băng của ngày hội.
Khi con đường trở nên quá gồ ghề không thể đi xe thêm xa hơn, chú Luke đậu xe lại và tắt đèn. Chú nhìn Clary. “Nếu chú bảo cháu ở đây chờ chú, cháu có nghe không?”
Cô lắc đầu. “Ở trong xe cũng không nhất thiết là an toàn hơn nhiều. Ai mà biết được Valentine có lính tuần tra ngoài vành đai không?”
Chú Luke cười khe khẽ. “Vành đai. Nghe cháu kìa.” Chú chui ra khỏi xe và đi sang giúp cô xuống. Cô có thể tự mình nhảy xuống, nhưng sẽ tốt hơn nếu có chú giúp, chú vẫn làm như vậy kể từ hồi cô còn quá nhỏ không thể xuống được.
Chân cô chạm xuống nền đất nện khô, làm bụi bốc mù lên. Những chiếc xe đi theo sau cũng dừng lại, từng chiếc một, tạo thành một vòng tròn xung quanh xe chú Luke. Những ngọn đèn pha chiếu sáng phía trước, nhuộm hàng rào mắt cáo thành màu trắng bạc. Bên kia hàng rào, bệnh viện là một khu tàn tích tắm mình trong ánh sáng gay gắt cho thấy tình trạng xập xệ của nó: những bức tường tốc mái mọc lên từ nền đất gồ ghề giống như những chiếc răng gẫy, tường chắn bằng đá có lỗ châu mai bị cây thường xuân mọc che kín. “Đây là một phế tích,” cô nghe mình đang khe khẽ nói, có sự đồng cảm trong giọng nói. “Cháu chẳng hiểu sao Valentine lại có thể trốn ở đây.”
Chú Luke nhìn về phía bệnh viện. “Nó được bọc trong lưới ảo ảnh rất mạnh,” chú nói. “Cố nhìn qua ánh sáng đi.” Alaric đang đi dọc con đường về phía họ, cơn gió nhẹ khiến chiếc áo khoác bò của chú ta khẽ mở, lộ ra bộ ngực đầy sẹo. Những người sói đi sau chú ta trông hoàn toàn bình thường, Clary nghĩ. Nếu cô thấy họ đi cùng nhau ở nơi nào đó, cô sẽ nghĩ họ biết nhau - ở họ có một sự tương đồng không phải ở bề ngoài, mà là ở ánh mắt thẳng thắn, ở vẻ mặt mạnh mẽ. Cô sẽ nghĩ họ là những người nông dân, vì họ có vẻ nước da cháy nắng, săn chắc, và gầy còm hơn những cư dân thành phố trung bình, hoặc cô sẽ nghĩ họ là một nhóm dân chơi mô tô. Nhưng họ chẳng giống quái vật chút nào.
Họ đi cùng nhau nhanh gọn họp lại bên xe chú Luke, như thể cuộc hội ý trong môn bóng bầu dục. Clary, cảm thấy như một kẻ ngoài cuộc, quay ra nhìn lại bệnh viện một lần nữa. Lần này cô cố nhìn quanh ánh đèn, hay nhìn xuyên qua nó, cách thi thoảng bạn vẫn nhìn qua lớp sơn phủ để thấy những gì bên dưới. Và như thường lệ, nghĩ đến việc mình sẽ vẽ nó ra như thế nào luôn giúp ích cho cô. Ánh sáng dường như nhạt dần, và giờ cô đang nhìn qua một tràng cỏ với vài cây sồi tới một kiến trúc theo phong cách Gothic Phục Hưng dường như đứng sừng sững trước những rặng cây như thành một con tàu lớn. Những ô cửa sổ của những tầng dưới tối om và đã vỡ, nhưng ánh sáng tràn qua những ô cửa sổ hình vòm ở tầng ba, giống như ngọn lửa chạy dọc theo một rặng núi xa xa nào đó. Hiên nhà bằng đá nặng nề hướng ra ngoài, che khuất cánh cửa.
“Cháu thấy chưa?” chú Luke đã đến sau cô với những bước đi uyển chuyển của - một con sói.
Cô vẫn nhìn. “Nó giống một lâu đài hơn là bệnh viện.”
Chú Luke quay vai cô sang nhìn chú. “Clary, nghe chú nói này.” Chú nắm chặt tới phát đau. “Chú muốn cháu ở cạnh chú. Di chuyển khi chú di chuyển. Nắm lấy tay áo chú nếu cháu thấy cần. Những người khác sẽ ở quanh chúng ta, bảo vệ chúng ta, nhưng nếu cháu bước ra ngoài vòng tròn, họ không thể bảo vệ cháu được nữa. Họ sẽ đưa chúng ta tới cửa. Chú bỏ tay khỏi vai cô và khi chú di chuyển, cô thoáng thấy ánh kim loại lóe lên từ trong áo khoác. Cô đã không nhận ra chú có mang theo vũ khí, nhưng rồi cô nhớ ra điều Simon nói về thứ trong ba lô vải thô màu xanh cũ xỉn của chú Luke và hiểu ra. “Cháu hứa làm theo lời chú chứ?”
“Cháu hứa.”
Hàng rào là thật, không phải ảo ảnh. Alaric, vẫn ở trước, rung nó rần rần, rồi giơ bàn tay lười nhác lên. Những móng vuốt dài nhô ra từ dưới móng tay, và chú ta chém vào hàng rào mắt cáo, biến kim loại thành từng dải. Chúng lanh canh rơi xuống, hệt như những món đồ chơi xếp hình của Tinkertoys.
“Đi.” Anh ta ra hiệu cho những người khác chui qua. Họ lao về phía trước như một thể thống nhất, một biển những chuyển động hợp tác ăn ý. Nắm lấy tay Clary, chú Luke đẩy cô lên trước rồi chui vào theo. Họ đứng thẳng dậy sau khi chui qua, nhìn về phía bệnh viện đậu mùa, nơi những bóng đen tụ tập trên hiên đang bước xuống thềm.
Alaric ngửng đầu, đánh hơi. “Mùi của chết chóc nặng quá.”
Hơi thở chú Luke rời khỏi lồng ngực thành một tràng ồ ồ những tiếng rít. “Những Kẻ Lầm Đường.”
Chú đẩy Clary ra sau; cô nghe theo, hơi chuệnh choạng vì nền đất kém bằng phẳng. Cả đàn bắt đầu di chuyển về phía cô và chú Luke; khi tới gần, họ đi bằng bốn chân, môi cong lên để lộ những chiếc răng nanh dài, chân tay biến thành tứ chi phủ lông, lông mọc tràn ra khỏi quần áo. Có những giọng nói bé xíu của bản năng vang lên trong đầu Clary đang hét với cô: Sói! Chạy đi! Nhưng cô không chống lại và đứng nguyên tại chỗ, dù cảm thấy những dây thần kinh đang rung lên ở tay.
Đàn sói bao lấy họ, đối mặt về phía trước. Nhiều sói xuất hiện ở ngoài vòng tròn. Như thể cô và chú Luke đang đứng ở trung tâm một ngôi sao. Giống như thế, họ bắt đầu di chuyển về phía hiên trước của bệnh viện. Vẫn ở sau chú Luke, Clary thậm chí còn không nhìn thấy Kẻ Lầm Đường đầu tiên họ đụng độ. Cô nghe thấy một con sói tru lên như bị thương. Tiếng hú cứ lên cao cao mãi, rồi nhanh chóng chuyển thành tiếng gầm ghè. Có tiếng thịch rồi tiếng hét đùng đục và âm thanh như tiếng giấy bị xé.
Clary thấy mình đang tự hỏi liệu Kẻ Lầm Đường có ăn được không.
Cô ngước nhìn chú Luke. Mặt chú không có lấy một biểu cảm. Cô thấy chúng, ngoài vòng tròn sói, cảnh tượng được chiếu sáng rõ nhờ ánh đèn và ánh sáng từ Manhattan tới: hàng tá Kẻ Lầm Đường, làn da trắng ởn như xác chết dưới ánh trăng, trên da phủ kín những chữ rune như bị nhiễm trùng. Mắt chúng đờ đẫn khi lao vào đám sói, những con sói đối đầu với chúng, vuốt cào, răng cắn và xé. Cô thấy một trong những chiến binh Lầm Đường - một phụ nữ - ngã ra sau, cổ họng bị xé toạc, tay vẫn giật giật. Một kẻ khác ẩu đả với con sói bằng một tay trong khi tay kia đang nằm cách cả mét, máu túa ra từ mỏm chi cụt. Máu đen, đặc như nước đầm lầy, chảy thành dòng, thấm vào bãi cỏ nhiều đến mức Clary cảm thấy hơi trơn trượt. Chú Luke nắm lấy tay cô trước khi cô ngã. “Đứng đây với chú.”
Cháu vẫn ở đây, cô muốn nói nhưng không mở miệng nổi. Nhóm vẫn tiến về phía bệnh viện, chậm tới phát bực. Chú Luke nắm như gọng kìm. Clary không biết ai đang thắng, nếu có bên thắng. Người sói có kích thước và tốc độ vượt trội nhưng những Kẻ Lầm Đường di chuyển với sự chắc chắn và khó giết kinh khủng. Cô thấy một con sói nâu vốn là Alaric hạ gục một kẻ bằng cách xé toạc chân hắn và nhảy lên cắn cổ. Nó vẫn bước, kệ cho chú ta đang xé cổ họng nó, cái rìu vung lên để lại một vết thương dài đổ máu trên lớp lông mượt của Alaric.
Bị phân tâm, Clary hầu như chẳng để ý Kẻ Lầm Đường đã xuyên qua vòng bảo vệ, tới khi nó xuất hiện trước mặt cô, hệt như từ dưới đất mọc lên vậy. Mắt trắng dã, tóc bết bẩn, nó giơ con dao đang nhỏ máu lên.
Cô hết. Chú Luke quay phắt lại, kéo cô sang bên và nắm lấy cổ tay cái thứ đó mà vặn. Cô nghe tiếng xương gẫy, rồi con dao rơi xuống cỏ. Tay Kẻ Lầm Đường lủng la lủng lẳng, nhưng nó vẫn tiến tới, rõ ràng không biết đau là gì. Chú Luke gào tên Alaric. Clary cố với lấy con dao nơi thắt lưng, nhưng chú Luke giữ cô quá chặt. Trước khi cô kịp hét bảo chú thả cô ra, một ánh lửa bạc phóng vụt qua họ. Gretel. Cô đáp xuống ngực Kẻ Lầm Đường bằng hai chân trước, đánh ngã hắn. Một tiếng gào giận dữ vang lên từ cổ họng Gretel, nhưng Kẻ Lầm Đường mạnh hơn; nó quăng cô sang bên như quăng một con búp bê vải và đứng dậy.
Có gì đó bế bổng Clary. Cô hét, nhưng đó là Alaric, nửa người nửa sói, tay vẫn đầy những móng vuốt sắc nhọn. Nhưng đôi tay đó đang bế cô một cách nhẹ nhàng.
Chú Luke ra hiệu cho họ. “Đưa con bé ra khỏi đây! Đưa nó tới cửa!” chú đang hét.
“Chú Luke!” Clary vặn vẹo trong vòng tay Alaric.
“Đừng nhìn,” Alaric gầm gừ.
Nhưng cô đã nhìn. Đủ lâu để thấy chú Luke tiến về phía Gretel, con dao trên tay, nhưng chú đã quá muộn. Kẻ Lầm Đường cầm lấy con dao trên cỏ ướt máu, đâm vào lưng Gretel, hết lần này tới lần khác, trong khi cô cào cấu, chống cự rồi cuối cùng đổ gục, ánh sáng trong đôi mắt bạc biến mất. Với một tiếng hét chú Luke vung dao nhắm vào cổ Kẻ Lầm Đường...
“Chú đã bảo cháu đừng nhìn rồi mà,” Alaric gầm gừ, quay người dùng cơ thể che tầm nhìn của cô. Họ đang lao lên thềm, tiếng bàn chân đầy móng vuốt cào lên lớp đá hoa cương nghe hệt như tiếng móng tay cào lên bảng.
“Alaric,” Clary gọi.
“Ừ?”
“Cháu xin lỗi vì đã phi dao vào chú.”
“Không cần. Cháu phi vào đúng nơi mà.”
Cô cố nhòm qua chú ta. “Chú Luke đâu rồi?”
“Chú đây,” chú Luke nói. Alaric quay người. Chú Luke đang bước lên, nhét kiếm vào vỏ được đeo bên người, ngay dưới áo khoác. Lưỡi kiếm dính máu đen nhớp nháp.
Alaric thả Clary chuồi lên hàng hiên. Cô đứng xuống, quay phắt lại. Cô không thấy Gretel hay Kẻ Lầm Đường đã giết chị, chỉ có những cơ thể lố nhố và ánh kim loại loang loáng. Mặt cô đang ướt. Cô đưa tay lên để xem có chảy máu không nhưng hóa ra cô đang khóc. Chú Luke tò mò nhìn. “Gretel là một cư dân của Thế Giới Ngầm thôi,” chú nói.
Mắt Clary nóng lên. “Đừng nói thế.”
“Chú hiểu.” Chú quay sang Alaric. “Cám ơn cậu đã chăm sóc con bé. Trong khi chúng ta đi tiếp...”
“Tôi sẽ đi cùng anh,” Alaric nói. Chú ta đã chuyển thành dạng người hơn rồi, nhưng đôi mắt vẫn là mắt sói và vành môi vén lên để lộ những chiếc răng dài như những cái tăm. Chú co duỗi bàn tay với những móng tay dài ngoằng ra.
Đôi mắt chú Luke có phần ưu tư. “Alaric, đừng.”
Cái giọng gầm gừ của Alaric vẫn bình tĩnh. “Anh là thủ lĩnh. Giờ tôi là sói hai vì Gretel đã chết. Để anh một mình thật không được.”
“Tôi...” chú Luke nhìn Clary rồi lại nhìn trận chiến trước bệnh viện. “Tôi cần anh đi ra khỏi đây, Alaric. Tôi xin lỗi. Đó là lệnh.”
Đôi mắt Alaric lóe lên sự kháng cự, nhưng chú ta vẫn bước sang bên. Cánh cửa bệnh viện bằng gỗ dày được chạm khắc những họa tiết quen thuộc với Clary, những bông hồng của Idris, những chữ rune cong cong, vầng thái dương đang tỏa nắng. Cánh cửa mở ra với tiếng đánh bốp của then cài bật tung khi chú Luke đá vào. Chú đẩy Clary tiến lên qua khung cửa mở. “Vào trong đi.”
Cô lập cập đi qua chú, đến ngưỡng cửa thì quay lại. Cô thoáng thấy Alaric nhìn theo, đôi mắt chú ta lóe sáng. Sau lưng chú ta, thảm cỏ trước bệnh viện rải rác những cái xác, đất bẩn hòa cùng máu, đen hòa trộn cùng đó. Khi cánh cửa đóng sầm lại sau lưng, che đi khung cảnh kia, cô thấy mừng.
Cô và chú Luke đứng trong cảnh tranh tối tranh sáng, trên lối vào bằng đá chỉ được chiếu sáng nhờ một ngọn đuốc duy nhất. Sau những tiếng la hét hỗn độn của trận chiến, sự im lặng ở trong này giống như một chiếc áo choàng ngột ngạt. Clary thấy mình đang cố hít thở, cố hít lấy thứ không khí không quá ẩm ướt và không tanh nồng mùi máu.
Chú Luke nắm lấy vai cô. “Cháu ổn không?”
Cô lau má. “Chú không nên nói vậy. Về chuyện Gretel chỉ là một cư dân Thế Giới Ngầm. Cháu không nghĩ thế.”
“Chú mừng khi nghe cháu nói thế.” Chú với lấy ngọn đuốc trên đế sắt. “Chú ghét ý tưởng nhà Lightwood đã biến cháu thành bản sao của họ.”
“Họ không hề.”
Chú không rút nổi cây đuốc; chú nhíu mày. Cho tay vào túi, Clary lấy ra viên đá chữ rune nhẵn nhụi mà Jace đã tặng cô trong ngày sinh nhật, và giơ cao. Ánh sáng bừng lên giữa những ngón tay, như thể cô vừa làm nứt vỏ hạt giống bóng tối, để ánh sáng bị nhốt bên trong lọt ra. Chú Luke thả cây đuốc.
“Đèn phù thủy?” chú nói.
“Jace đưa cho cháu.” Cô có thể cảm thấy nhịp đập trên tay, tựa nhịp tim của một chú chim nhỏ. Cô tự hỏi Jace ở đâu trong chuỗi phòng đá xám này, liệu anh có sợ, liệu anh có tự hỏi rằng anh có được gặp lại cô hay không không.
“Đã nhiều năm rồi chú mới thấy lại một ngọn đèn phù thủy,” chú Luke nói và bắt đầu lên lầu. Những bậc cầu thang kêu cót két từng hồi dưới gót giày của chú. “Đi theo chú.”
Ánh sáng lóe lên của ngọn đèn phù thủy tạo ra cho họ những cái bóng kéo dài kỳ dị trên những bức tường đá hoa cương trơn nhẵn. Họ dừng lại trước thềm đá hình tròn bao quanh một cổng vòm. Cô có thể thấy ánh sáng trên đó. “Có phải bệnh viện đã như thế, hàng trăm năm trước?” Clary thì thào.
“Ồ phần cốt lõi của những gì Renwick xây vẫn là đây,” chú Luke nói. “Nhưng chú có thể tưởng tượng Valentine, Blackwell và những kẻ khác đã thay đổi nơi này một chút cho hợp với khẩu vị. Nhìn này.” Chú chà chân xuống sàn nhà: Clary nhìn xuống và thấy một chữ rune khắc trên đá hoa cương dưới chân họ: một hình tròn, ở giữa có một khẩu hiệu bằng tiếng La tinh: In Hoc Signo Vinces.
“Có nghĩa là gì ạ?” cô hỏi.
“Có nghĩa là ‘Nhân danh dấu hiệu này chúng ta sẽ chinh phục.’ Đó là phương châm của Circle.”
Cô nhìn lên, về phía ánh sáng. “Vậy họ ở đây,”
“Họ ở đây,” chú Luke nói và có sự phấn khích in trong giọng chú. “Đi nào.”
Họ bước lên cầu thang xoắn ốc, đi lượn tròn về phía ánh sáng tới khi nó tỏa chiếu lên người họ và họ đứng trong một hành lang dài và hẹp. Những ngọn đuốc bập bùng cháy hai bên. Clary nắm chặt ngọn đèn phù thủy, và nó nháy nháy rồi tắt như một ngôi sao chết.
Có những cánh cửa hai bên hành lang, tất cả đều đóng chặt. Cô tự hỏi liệu chúng có phải là những phòng bệnh vào hồi nơi này còn là bệnh viện, hoặc có thể là phòng riêng không. Khi họ bước đi trong hành lang, Clary nhìn thấy những dấu giày, dính bùn đất từ bãi cỏ bên ngoài, chằng chịt trên lối đi. Có người nào đó vừa mới đi lại ở đây.
Cánh cửa đầu tiên họ cố mở bật ra dễ dàng, nhưng căn phòng hoàn toàn trống trải: chỉ có nền gỗ bóng loáng và những bức tường đá, sáng tới kỳ quái dưới ánh trăng tràn vào qua ô cửa sổ. Những tiếng gào thét văng vẳng của trận chiến bên dưới tràn vào phòng, rì rào như tiếng sóng biển. Căn phòng thứ hai chứa đầy vũ khí: kiếm, thương, và rìu. Ánh răng chạy trên những hàng vũ khí bằng thép tuốt trần như một làn nước bạc. Chú Luke huýt sáo khe khẽ. “Một bộ sưu tập công phu đây.”
“Chú nghĩ Valentine sử dụng hết từng đây sao?”
“Không thể. Chú nghĩ nó dành cho quân đội của hắn.” Chú Luke quay đi.
Căn phòng thứ ba là phòng ngủ. Những tấm rèm treo quanh cái giường bốn cọc màu xanh da trời, tấm thảm Ba Tư mang họa tiết màu đen, xanh và xám, đồ nội thất sơn trắng muốt, giống như đồ nội thất của phòng trẻ con. Một lớp bụi mỏng phủ lên tất cả, sáng nhờ nhờ dưới ánh trăng.
Trên giường, mẹ Jocelyn đang say giấc ngủ.
Mẹ đang nằm ngửa, một tay chểnh mảng đặt lên ngực, mái tóc xổ tung trên gối. Mẹ mặc chiếc váy ngủ màu trắng Clary chưa từng thấy bao giờ, đang thở đều đều nhè nhẹ. Dưới ánh trăng sáng vằng vặc, Clary có thể thấy mí mắt mẹ đang động đậy trong cơn mơ.
Hét lên khe khẽ, Clary chạy vội về phía trước - nhưng chú Luke đã ôm ngang ngực cô tựa như một rào chắn, ngăn cô lại. “Đợi đã,” chú nói, giọng chú cũng căng thẳng. “Chúng ta phải cẩn thận.”
Clary quắc mắt nhìn chú, nhưng chú không nhìn cô, khuôn mặt chú thể hiện sự giận dữ và đau đớn cao độ. Cô nhìn theo mắt chú và trông thấy những gì lúc nãy cô đã không muốn thấy. Những chiếc cùm bạc xích chặt lấy cổ tay và chân mẹ Jocelyn, đầu kia những sợi xích bạc đóng chặt xuống nền đá hai bên giường. Chiếc bàn bên cạnh đầy những khay ống và chai lọ kỳ dị, những lọ thủy tinh và những vật dụng bằng thép phẫu thuật có đầu nhọn dài và cong queo. Một chiếc ống bằng cao su dẫn từ một trong những bình thủy tinh tới mạch tay trái của mẹ Jocelyn.
Clary cố vùng khỏi vòng tay đang giữ chặt lấy cô của chú Luke và lao về giường, ôm lấy cơ thể bất động của mẹ. Nhưng chỉ giống như ôm một con búp bê các khớp nối đã hỏng. Cơ thể của mẹ Jocelyn vẫn cứng đơ và bất động, hơi thở chậm rãi thở đều đều.
Nếu là một tuần trước, Clary sẽ khóc như cái đêm cô phát hiện mẹ biến mất, khóc và gọi tên mẹ. Nhưng giờ cô không thể khóc lấy một giọt nước mắt, cô thả mẹ và đứng thẳng dậy. Cô không còn sợ gì nữa, cũng chẳng thương tiếc cho mình: chỉ có cơn giận dữ và nhu cầu tìm kẻ đã làm chuyện này, kẻ chịu trách nhiệm cho mọi chuyện.
“Valentine,” cô nói.
“Tất nhiên.” Chú Luke đứng cạnh cô, chạm nhẹ lên gương mặt Jocelyn, vén mí mắt mẹ cô lên. Đôi mắt bên dưới đó vô hồn như đôi đá cẩm thạch. “Mẹ cháu không bị tiêm thuốc,” chú nói. “Chú nghĩ mẹ cháu bị bỏ bùa.”
Clary thở ra trong tiếng sụt sịt cố nén lại. “Làm sao chúng ta đưa mẹ ra bây giờ?”
“Chú không thể chạm vào chiếc cùm,” chú Luke nói. “Bằng bạc. Cháu có...”
“Phòng vũ khí,” Clary đứng dậy. “Cháu thấy ở đó có rìu. Vài cái. Chúng ta có thể chặt dây xích...”
“Những sợi dây xích này không thể phá hủy được.” Giọng vang lên từ phía cánh cửa nghe thấp trầm, khàn khàn và quen thuộc. Clary quay lại thấy Blackwell. Hắn đang cười, vẫn khoác trên mình chiếc áo chùng màu đỏ máu như lần trước, chiếc mũ kéo ra sau, đôi giày dính bùn đất thấy rõ dưới gấu áo. “Graymark,” hắn nói. “Thật là một sự bất ngờ tuyệt vời.”
Chú Luke đứng thẳng. “Nếu mày ngạc nhiên, mày là một thằng ngu,” chú nói. “Tao không hề đến trong im lặng.”
Má Blackwell rực một vầng tím đậm hơn, nhưng hắn không di chuyển về phía chú Luke. “Lại sói đầu đàn nữa sao?” hắn nói và cười chẳng lấy gì làm thoải mái. “Không thể bỏ thói quen bắt bọn Thế Giới Ngầm thay anh làm việc bẩn thỉu à? Đội quân của Valentine đang bận xé thịt chúng dưới bãi cỏ, còn anh ở đây an toàn cùng mấy cô bạn gái.” Hắn nhếch mép cười về phía Clary. “Cô bé này hơi trẻ so với anh đấy, Lucian.”
Clary đỏ mặt vì giận, tay nắm lại thành quyền, nhưng giọng chú Luke, khi chú trả lời, vẫn giữ được lịch sự. “Tôi sẽ không gọi cái đó là đội quân đâu, Blackwell,” chú nói. “Đó là những Kẻ Lầm Đường. Từng là những con người nhưng phải chịu hành hạ đau đớn. Nếu tôi nhớ đúng. Clave cực kỳ khó chịu với vụ này - tra tấn, sử dụng phép thuật hắc ám. Tôi không thể tưởng tượng họ hài lòng tới mức nào.”
“Hội Clave chết tiệt,” Blackwell gầm lên. “Chúng tôi không cần chúng và những đường lối nhún nhường bọn lai tạp của chúng. Hơn nữa, đội quân những Kẻ Lầm Đường sẽ sớm không còn là Kẻ Lầm Đường nữa. Một khi Valentine sử dụng chiếc Cốc với chúng, chúng sẽ trở thành những Thợ Săn Bóng Tối giỏi hệt như chúng ta - hữu hiệu hơn cái cách Clave đào tạo ra những chiến binh bây giờ. Những kẻ ẻo lả yêu thích Thế Giới Ngầm.” Hắn nhe hàm răng cùn mùn.
“Nếu đó là kế hoạch của hắn với chiếc Cốc,” chú Luke nói, “vì sao hắn chưa làm? Hắn còn đợi gì nữa?”
Blackwell nhướn mày. “Anh không biết gì sao? Ngài đã có...”
Một tràn cười mượt như nhung ngắt lời hắn. Pangborn xuất hiện lùn xủn chỉ ngang tới khuỷu tay đồng bọn, mặc toàn đồ đen với sợi dây da buộc ngang vai. “Đủ rồi, Blackwell,” y nói. “Như thường lệ, anh nói quá nhiều.” Y nhe hàm răng nhọn hoắt về phía chú Luke. “Kế hoạch hay đấy, Graymark. Tôi không nghĩ là anh lại có gan đi lãnh đạo đàn sói mới nhất vào một nhiệm vụ tự sát.”
Khóe miệng chú Luke giật giật. “Jocelyn,” chú nói. “Hắn đã làm gì cô ấy?”
Pangborn khúc khích nghe như tiếng nhạc. “Tôi tưởng anh không quan tâm.”
“Tôi chẳng hiểu hắn muốn gì ở cô ấy nữa,” chú Luke nói tiếp, bỏ qua câu cười nhạo. “Hắn đã có chiếc Cốc. Cô ấy chẳng có tác dụng gì với hắn nữa. Valentine chưa bao giờ là kẻ giết người bừa bãi. Hắn giết người có chủ đích. Giờ, hắn là một câu chuyện hoàn toàn khác rồi.”
Pangborn hờ hững nhún vai. “Ngài làm gì với cô ta chẳng liên quan gì tới bọn này,” hắn nói. “Jocelyn là vợ ngài. Có lẽ ngài ghét cô ta. Đó là vấn đề.”
“Thả cô ấy ra,” chú Luke nói, “và chúng tôi sẽ bỏ đi cùng cô ấy, bảo đàn sói rút lui. Tôi sẽ nợ anh lần này.”
“Không!” cơn giận của Clary bùng nổ khiến Pangborn và Blackwell phải ngoái lại nhìn. Cả hai trông hơi hơi không tin vào mắt mình, như thể cô là một con gián biết nói. Cô quay sang chú Luke. “Vẫn còn Jace nữa. Anh ấy cũng ở đâu đó trong đây.”
Blackwell đang tặc lưỡi. “Jace hả? Chưa bao giờ nghe tới một Jace nào,” hắn nói. “Giờ, tôi có thể bảo Pangborn thả cô ta ra. Nhưng tôi sẽ không. Jocelyn với tôi mà nói, luôn là một con quỷ cái. Luôn tự cho mình cao quý hơn tất cả, nhờ vào vẻ bề ngoài và dòng dõi. Chỉ là một con chó cái thuần chủng, không hơn. Cô ta chỉ kết hôn cùng ngài để có thể chi phối chúng ta...”
“Bực mình vì anh không thể cưới cô ấy được, phải không Blackwell?” là tất cả những gì chú Luke đáp trả, dù Clary nghe ra cơn giận dữ lạnh lùng trong giọng nói của chú.
Blackwell, mặt tím lịm, giận dữ tiến thêm một bước.
Và chú Luke, di chuyển quá nhanh khiến Clary gần như chẳng nhìn thấy, cầm lấy con dao mổ trên mặt bàn mà ném. Nó xoay hai vòng trong không khí và cắm ngập vào cổ họng Blackwell, cắt đứng lời đáp thô thiên của hắn. Hắn sặc khèn khẹt, mắt chỉ còn lòng trắng và ngã khuỵu xuống, tay ôm lấy cổ. Máu màu huyết dụ đổ ra qua kẽ ngón tay. Hắn mở miệng muốn nói, nhưng chỉ có máu trào ra. Tay hắn trượt khỏi cổ và hắn đổ sập xuống như một cái cây bị cưa đổ.
“Ôi thôi,” Pangborn nói nhìn cái xác đổ xuống của người chiến hữu với sự kinh tởm. “Chết chẳng đẹp gì hết.”
Máu chảy qua vết cắt nơi cổ họng Blackwell tràn xuống sàn nhà, tạo thành vũng máu đỏ sền sệt. Chú Luke, nắm lấy vai Clary, thì thầm gì đó vào tai cô. Chẳng có nghĩa gì hết. Clary chỉ cảm nhận được tiếng ong ong trong đầu. Cô nhớ tới một bài thơ khác trong lớp tiếng Anh, gì đó về sau khi nhìn thấy cái chết đầu tiên ta chứng kiến, những cái chết khác chẳng còn ý nghĩa gì. Nhà thơ đã không hiểu ông ta đang nói gì.
Chú Luke thả cô ra. “Chìa khóa, Pangborn,” chú nói.
Pangborn dùng chân đá Blackwell, và ngước nhìn. Y trông khó chịu. “Hoặc sao? Anh sẽ ném xi lanh vào tôi? Chỉ có duy nhất một con dao trên bàn thôi. Không,” y nói, vươn ra sau và rút một lưỡi kiếm dài và trông hiểm ác, “tôi e là nếu anh muốn có chìa khóa, anh phải tới mà lấy thôi. Không phải vì tôi quan tâm tới Jocelyn Morgenstern theo cách này hay cách khác, anh hiểu mà, nhưng chỉ vì tôi, đã mong chờ được giết anh... nhiều năm rồi.”
Y nói tiếng cuối cùng, tận hưởng nó với sự hào hứng khi tiến vào phòng. Lưỡi kiếm lóe lên, giống như một tia sét dưới ánh trăng. Clary thấy chú Luke giơ tay về phía cô - một bàn tay dài kỳ lạ, với những móng tay như những con dao nhỏ xíu - và cô nhận ra hai điều: rằng chú sắp Biến Đổi, và rằng chú chỉ thì thầm vào tai cô một tiếng.
Chạy.
Cô chạy. Cô chạy theo hình chữ chi vượt qua Pangborn trong khi y chẳng buồn liếc nhìn cô, vòng qua xác Blackwell và ra ngoài cửa vào hành lang, tim đập dồn, trước khi chú Luke kịp biến đổi hoàn toàn. Cô không nhìn lại, nhưng cô nghe có tiếng hú, một tràng dài dữ dội, tiếng kim loại va chạm, tiếng đổ vỡ. Cô nghĩ là tiếng thủy tinh vỡ. Có lẽ họ đã làm đổ chiếc tủ đầu giường.
Cô lao qua hành lang vào phòng vũ khí. Trong đó cô vớ lấy chiếc rìu lưỡi thép đã nhuốm màu thời gian. Nó đóng chặt trên tường, dù cô đã không giằng hết sức. Cô cố lấy thanh kiếm, rồi thanh trượng lông vũ - thậm chí là một con dao nhỏ - nhưng chẳng có lấy một món vũ khí nào rời được ra. Cuối cùng, khi những móng tay bị gẫy gập và ngón tay chảy máu vì cố ráng, cô đành chịu thua. Trong phòng bị phù phép, không phải chỉ là phép thuật của những chữ rune: của một cái gì hoang dại và kỳ dị, một thứ gì đó hắc ám.
Cô ra khỏi phòng. Chẳng có gì trên tầng này có thể giúp cô. Cô tập tễnh đi xuống hành lang - cô bắt đầu cảm thấy cơn đau do kiệt sức thực sự ở chân và tay - và thấy mình đang mối nối giữa hai đầu cầu thang. Đi lên hay đi xuống đây? Cô nhớ lại, bên dưới trống vốc không có ánh sáng. Tất nhiên cô có ngọn đèn phù thủy trong túi, nhưng có gì đó trong cô chống cự lại chuyện một mình bước vào khoảng không u ám kia. Phía trên kia ánh sáng mạnh hơn, giúp cô thoáng thấy gì đó vừa di chuyển.
Cô đi lên. Cẳng chân cô đau, bàn chân đau, mọi thứ đều đau nhức. Vết thương đã được băng bó, nhưng vẫn không ngăn chúng khỏi nhức nhối. Mặt cô đau ở chỗ bị Hugo cào trên má, và miệng có vị gì đó đăng đắng và tanh tanh.
Cô bước lên đầu cầu thang trên cùng. Cầu thang cong cong như thân tàu, tầng trên im lặng hệt như ở tầng dưới; không có âm thanh nào của trận ẩu đả bên ngoài vang tới tai cô. Một hành lang kéo dài trước mắt cô, cũng với không biết bao nhiêu cánh cửa, nhưng ở đây có một số đã mở, để thêm ánh sáng tràn vào hành lang. Cô tiến lên, và một bản năng nào đó kéo cô tới cánh cửa cuối cùng bên trái. Cô thận trọng liếc nhìn vào trong.
Lúc đầu, căn phòng làm cô nhớ tới một trong những phòng triển lãm được tái cấu trúc của Bảo Tàng Nghệ Thuật Metropolitan. Cô có cảm giác được bước vào quá khứ - những bức tường ốp ván sáng lên như thể mới được đánh bóng, cả chiếc bàn ăn dài bất tận bày những món đồ sứ tinh tế. Một chiếc gương viền vàng trang trí tỉ mỉ treo trên tường đầu kia, giữa hai bức chân dung đóng khung nặng nề. Mọi thứ đều sáng lên dưới ánh đuốc: những chiếc đĩa trên bàn ăn đầy ắp thức ăn, những chiếc ly có rãnh tạo hình hoa huệ trắng, những chiếc khăn trải bàn trắng tới lóa mắt. Ở cuối phòng là hai ô cửa sổ rộng, che kín bởi những rèm vải nhung dày. Jace đứng ở một bên cửa sổ, im phăng phắc khiến cô tưởng anh là một bức tượng, tới khi cô nhận ra cô có thể thấy ánh sáng đang sáng lên trên mái tóc anh. Tay trái anh giữ mở chiếc rèm, và từ ô cửa sổ tối cô thấy sự phản chiếu của chừng một tá nến, bị nhốt trong kính hệt như những con đom đóm.
“Jace,” cô gọi. Cô nghe thấy giọng mình từ xa vọng tới: sự kinh ngạc, lòng biết ơn, niềm khao khát thật vời vợi đến mức đớn đau. Anh quay lại, thả rơi tấm rèm, và cô thấy cái nhìn băn khoăn trên mặt anh.
“Jace!” Cô lại gọi và chạy về phía anh. Anh ôm lấy cô khi cô lao vào anh. Vòng tay anh ôm cô rất chặt.
“Clary.” Giọng anh gần như không nhận ra được. “Clary, em làm gì ở đây?”
Giọng cô nghèn nghẹt trên áo anh. “Em tới vì anh.”
“Em không nên.” Đột nhiên vòng tay anh ôm lấy cô lơi ra; anh lùi lại, giữ cô tránh xa anh một chút. “Chúa ơi,” anh nói và chạm vào mặt cô. “Cô bé ngu ngốc này, em làm gì khuôn mặt em thế.” Giọng anh giận dữ, nhưng ánh nhìn lướt trên khuôn mặt cô, những ngón tay nhẹ nhàng vén tóc cô ra sau tai, đều dịu dàng. Cô chưa bao giờ thấy anh như thế; ở anh có gì đó mong manh dễ vỡ, như thể anh không những đang cảm động, mà thậm chí còn bị tổn thương. “Vì sao em không bao giờ thèm suy nghĩ gì hết?” anh thì thầm.
“Em đang nghĩ mà,” cô nói. “Em đang nghĩ về anh.”
Anh nhắm mắt một lúc. “Nếu có chuyện gì xảy ra với em...” Tay anh nhẹ nhàng lần dọc cánh tay cô, xuôi xuống cổ tay cô, như để trấn an mình rằng cô thực sự ở đây. “Sao em tìm ra anh?”
“Chú Luke,” cô trả lời. “Em tới cùng chú Luke. Để cứu anh.”
Vẫn nắm lấy cô, anh nhìn gương mặt cô rồi nhìn cửa sổ, khóe môi hơi mím lại. “Vậy những kẻ kia - em tới cùng đàn sói?” anh hỏi, nghe giọng kỳ kỳ.
“Của chú Luke,” cô nói. “Chú ấy là người sói, và...”
“Anh biết.” Jace ngắt lời. “Lẽ ra anh phải đoán ra chứ nhỉ - những chiếc cùm.” Anh liếc nhìn cánh cửa. “Chú ấy đâu?”
“Dưới nhà,” Clary chậm rãi đáp. “Chú ấy đã giết Blackwell. Em lên đây tìm anh...”
“Chú ấy sẽ phải rút lui thôi,” Jace nói.
Cô nhìn anh không hiểu. “Cái gì?”
“Chú Luke,” Jace nói. “Chú ấy sẽ phải bảo đàn sói rút lui. Ở đây có sự hiểu lầm.”
“Gì chứ, anh tự bắt cóc mình sao?” Cô định trêu anh, nhưng giọng chỉ lí nhí vang lên. “Coi nào, Jace.”
Cô giật cổ tay anh lôi đi, nhưng anh cưỡng lại. Anh đang chăm chú nhìn cô, và cô giật mình nhận ra điều mình đã không nhìn thấy trong cơn nhẹ nhõm vội vàng đầu tiên.
Lần cuối cô trông thấy anh, anh xây xước bầm dập, quần áo dính đầy máu me và đất cát, tóc bết dịch vàng và bụi bẩn. Giờ anh mặc chiếc áo sơ mi trắng dáng suông và quần vải đen, mái tóc đã gội xổ quanh ôm lấy khuôn mặt, óng lên sắc vàng nhạt và bay bay bồng bềnh. Anh gạt vài lọn tóc rơi xuống mắt bằng bàn tay thanh mảnh, và cô thấy chiếc nhẫn bạc to bản đã trở lại ngón tay anh.
“Đây là quần áo của anh sao?” cô ngạc nhiên hỏi. “Và... anh đã được băng bó...” Giọng cô lạc đi. “Valentine có vẻ cực kỳ quan tâm tới anh.”
Anh cười yếu ớt với cô. “Nếu anh nói cho em nghe sự thực, em sẽ bảo anh điên mất,” anh nói.
Cô cảm thấy tim mình nhộn nhạo trong lồng ngực, như nhịp đập cánh dồn dập của một con chim ruồi.
“Không đâu.”
“Bố anh đã cho anh những quần áo này,” anh nói.
Sự nhộn nhạo trở thành tiếng thình thịch gấp gáp. “Jace,” cô dè dặt nói, “bố anh mất rồi.”
“Không,” anh lắc đầu. Cô có cảm giác anh đang kiềm chế một cảm xúc mạnh mẽ, như là kinh hoàng hay vui sướng - hoặc cả hai. “Anh cứ tưởng vậy, nhưng không phải. Tất cả chỉ là hiểu lầm.”
Cô nhớ tới điều Hodge nói về Valentine và khả năng nói ra những lời dối trá hấp dẫn lẫn đầy sức thuyết phục của hắn. “Có phải đây là điều Valentine nói với anh không? Vì hắn là một kẻ dối trá đó Jace. Hãy nhớ điều Hodge nói. Nếu hắn nói bố anh còn sống, đó là lời nói dối để bắt anh làm theo điều hắn muốn.”
“Anh đã gặp bố,” Jace nói. “Anh đã nói chuyện với bố. Bố cho anh cái này.” Anh giật giật chiếc áo mới sạch sẽ, như thể đó là bằng chứng không thể chối cãi. “Bố anh không chết. Valentine không giết ông. Lão Hodge đã nói dối anh. Bao nhiêu năm trời anh tưởng bố đã chết, nhưng hóa ra không phải.”
Clary hoảng sợ nhìn quanh, nhìn căn phòng với những món đồ sứ sáng bóng và những ngọn đuốc bập bùng cùng chiếc gương chói lòa chẳng phản chiếu gì. “Ừm, nếu bố anh thực sự ở đây, thế ông ấy đâu rồi? Valentine cũng bắt cóc ông sao?”
Đôi mắt Jace sáng lên. Cổ áo anh đang để mở và cô có thể thấy những vết sẹo trắng mảnh che phủ xương quai xanh, như những vết nứt trên làn da màu vàng mềm mại. “Bố anh...”
Cánh cửa phòng mà lúc trước Clary đã đóng lại, giờ đang cót két mở ra, và một người đàn ông bước vào phòng.
Là Valentine. Mái tóc trắng cắt sát da đầu sáng lên như chiếc mũ trụ bằng thép được đánh bóng và hắn đang mím môi thật chặt. Hắn đeo bao da ở thắt lưng dày và chuôi một thanh trường kiếm thò ra từ đó. “Thế nào,” hắn nói, vừa nói vừa đặt tay lên đốc kiếm, “con đã thu thập đồ đạc chưa? Những Kẻ Lầm Đường của chúng ta chỉ có thể cầm chân người sói trong khoảng...”
Thấy Clary, hắn dừng sững lại. Hắn không phải dạng người dễ dàng bị bất ngờ, nhưng cô thoáng thấy sự sửng sốt trong đôi mắt hắn. “Cái gì đây?” hắn hỏi, quay sang nhìn Jace.
Nhưng Clary đã đang sờ lên eo tìm con dao. Cô cầm lấy chuôi dao, rút ra khỏi vỏ, và giơ tay lên. Cơn giận tràn trong mắt cô theo từng nhịp như nhịp trống. Cô có thể giết gã đàn ông này. Cô sẽ giết hắn.
Jace nắm lấy cổ tay cô. “Không.”
Cô không thể nào giấu được vẻ khó tin. “Nhưng mà, Jace...”