Lê Tam Thành và Long Tuyền đồng thời giật mình, không ngờ Long tộc lại động thủ nhanh như vậy. Các phe thế lực lớn ở Huyền Hoàng giới mới dừng lại ở việc thăm dò thôi, ấy thế mà bọn họ chẳng những đã làm thân đâu vào đấy, lại còn tạo ra được một cơ hội bái sư cho tiểu công chúa nhà mình.
Tuy hiện giờ chưa chắc Bích Mặc tiên sinh đã thu nhận Long U, song thành tựu của Long tộc cũng khiến hai người này phải lau mắt mà nhìn.
Nhất là Lê Tam Thành lúc này trong lòng quả thực là cay hơn cả ăn ớt sống. Gã lần trước đến ngỏ ý mời Bích Mặc tiên sinh làm đế sư, hạ thấp tâm thế lắm rồi, ấy vậy mà vẫn bị từ chối. Nay thấy Long U nhận được cơ hội bái làm môn hạ Lão Thụ cổ viện, trong lòng đương nhiên không dễ chịu gì.
Song, y đường đường là thái tử Đại Việt, hiểu kẻ làm việc lớn thì lòng dạ phải rộng, nên nháy mắt đã khôi phục như cũ. Lê Tam Thành chắp tay, cười:
“Vậy cô gia xin chúc cho tiểu công chúa gặp được minh sư, tiên sinh lại thu được cao đồ.”
Bên cạnh, Long Tuyền trước là có hiềm khích chủng tộc với Long tộc, sau lại cũng không phải kẻ có công phu hàm dưỡng cao minh như Lê Tam Thành, nên chỉ hừ một cái lạnh căm căm.
Nguyễn Đông Thanh hắng giọng một cái, nói:
“Không giấu gì công chúa, tại hạ vốn cũng chẳng thạo âm luật đàn ca, có thể dạy được người không còn phải xem thế nào đã. Chuyện này vốn tại hạ đã thưa với Long sứ giả, hà cớ gì hiện giờ công chúa lại muốn thay đổi xoành xoạch như thế?”
“Rõ ràng là nói dối trẻ con. Đã thế bản công chúa về mách phụ vương!”
Long U dẩu môi, đôi mắt tròn vo thoắt cái đã ầng ậng một tầng hơi nước.
Bích Mặc tiên sinh của chúng ta nhăn mặt, thầm nghĩ:
“Chưa dạy buổi nào đã đau đầu thế này, nếu như thực sự phải đào tạo cô công chúa này chắc mình tổn thọ mất. Không được, lần này giá nào cũng phải từ chối khéo.”
Tiểu công chúa Long U cầm kỳ thư họa xem chừng cũng không giỏi giang, nhưng cổ linh tinh quái. Nếu như nàng ta bái vào môn hạ của mình, chạy đến cổ viện ở trường kỳ thì chắc từ giờ trở đi Nguyễn Đông Thanh hắn chẳng còn ngày nào được yên ổn mất.
Hắn ho khan một tiếng, nghiêm giọng:
“Chuyện này cứ như vậy đi. Chờ lúc Tả Dực quân rút khỏi ải Quan Lâm, tiểu công chúa hãy theo Long sứ giả đến hàn xá, khi ấy tại hạ đương nhiên sẽ giữ đúng lời hứa.”
Long U thấy thế thì cũng không tiếp tục tiến thêm bước nào nữa.
Cô nàng lại lườm Long Tuyền, dùng một ngón tay kéo mí mắt xuống, lưỡi thè ra trêu tức, giống như đang muốn nói “nhà ngươi liệu hồn mà cuốn gói cho sớm đi”.
Long Tuyền hừ lạnh, không đáp.
oOo
Tả Dực quân của Long Tuyền dừng lại ở Quan Lâm để chỉnh lý một hôm, sang đến sáng ngày thứ ba là đã từ biệt nhóm người Nguyễn Đông Thanh, Vũ tổng binh và Hồ Ma Huyền Nguyệt lên đường.
Quan tiếp sứ của chúng ta lần đầu hoàn thành nhiệm vụ, chờ lúc đại binh nước Tề đi khuất là lập tức vươn vai bẻ cổ, miệng ngáp dài một cái. Áp lực làm ngoại giao lần đầu nên mấy ngày nay Nguyễn Đông Thanh chẳng dám ngủ đến trưa mới dậy nữa, ngày nào cũng thức khuya dậy sớm, có thể nói là còn chăm chỉ hơn con Tiểu Thạch ở nhà.
Bây giờ, rốt cuộc Long Tuyền cũng dẫn người đi, lần tiếp sứ này xem như đại công cáo thành. Hắn vừa thả lỏng, tức thì cơn buồn ngủ lại đánh tới, con sâu lười trong bụng loe ngoe chui ra.
Nguyễn Đông Thanh vươn vai, nhẩm tính chắc cũng phải năm bảy ngày nữa thì cánh quân chi viện tiếp theo mới tới Quan Lâm. Viện quân sáu nước hành binh rất chậm, tốc độ thua xa cái lần Bích Mặc tiên sinh của chúng ta đi Mỹ Vị sơn trang cầu trù. Chuyện này gã cũng từng thắc mắc với Vũ Tùng Lâm thì được lão giải thích rằng để đảm bảo an ninh thì quân đội các nước đều được Văn Thân sư nước Hàn thích một hình xăm nhận diện, không thể sử dụng truyền tống trận của nước khác.
Bằng không lúc có chiến loạn, quân địch công hạ được một tòa thành có truyền tống trận thì cả nước đều lâm nguy. Quốc quân bảy nước đều thấy ý này có lý, cùng đồng tình để Văn Thân Sư nước Hàn xăm cho binh lính bên mình một hình nhận diện.
Chính vì thế, quân đội sáu nước chỉ có thể đi bộ khi vào Đại Việt, tốc độ không chậm đi mới là lạ.
Nguyễn Đông Thanh chào hai người Vũ Tùng Lâm, Hồ Ma Huyền Nguyệt, sau đó thản nhiên rảo chân rời khỏi thành, đi về cổ viện. Rảo bước trên đường, đi ngang qua những địa đạo và túp lều lụp xụp của nạn dân, Bích Mặc tiên sinh của chúng ta mới bất giác cảm khái. Kể ra thì cũng đã lâu rồi gã chưa đi bộ từ Quan Lâm về nhà.
Đi được một chốc, những bức tường thành của ải Quan Lâm đã khuất sau đường chân trời, gã mới bất giác sững người lại. Bấy giờ mé tả là cái đầm nước vô danh vừa mới hình thành sau trận thú triều, bên hữu là một cánh đồng lau ngút tầm mắt. Nguyễn Đông Thanh đi đến đây, bất giác thấy sống lưng ớn lạnh, mơ hồ cảm giác được trong bóng tối có những đôi mắt đầy sát ý đang nhìn mình chằm chằm.
Gã hít sâu một hơi, thủ sẵn lệnh bài của Lý Huyền Thiên trong tay, đoạn đổi hướng đi về phía cái đầm.
“Thiêm Nhi cô nương, Huyền Thanh phu nhân có đây không?”
Nguyễn Đông Thanh vừa nói dứt câu thì đã nghe phía đồng lau sau lưng cất lên tiếng cười lanh lảnh lạnh lẽo.
“Bích Mặc tiên sinh! Bọn ta muốn mượn cái đầu của tiên sinh về dùng đỡ, mong tiên sinh thành toàn.”
Lời vừa dứt, âm thanh cỏ lau lay động đã thi nhau vang lên. Nguyễn Đông Thanh tuy không có tu vi, chẳng phải người tu hành, nhưng lúc này tiếng lợi khí rít gào hắn vẫn có thể nghe rõ mồn một. Cảm nhận được sau lưng kình phong nhọn hoắt vùn vụt xé qua cánh đồng lau, càng lúc càng tới gần mà sống lưng gã ớn lạnh, mồ hôi trán bắt đầu tứa ra. Nguyễn Đông Thanh cũng chẳng rõ một kẻ bình thường chẳng có thứ gì quý giá như hắn vì sao lại bị người ta để mắt đến mà phái người ám sát như vậy.
Hắn quay đầu lại, chỉ thấy một mũi tên đang phát ra ánh sáng lập lòe lao tới nhắm ngay yết hầu.
“To gan!”
Lại nghe một tiếng quát lanh lảnh cất lên, từ đằng xa có mây đen ùn ùn kéo tới. Một bộ móng vuốt nhìn như móng chim thò ra từ bán không, vỗ vào mũi tên đang phóng tới. Chỉ nghe “rắc” một cái, hai nửa mũi tên đã rơi xuống đất.