Sau khi đánh lui quân triều đình.
Đặng Tiến Đông đến đón ba mũi tiến công của núi Lệ Chi về.
Về phần binh lực của tộc Thiên Thù, núi Lệ Chi hoàn toàn không cần phải đề phòng. Hiện tại Hoắc Trường Ca còn đang tự mình ở trên núi đàm đạo với Lâm Thanh Tùng. Binh mã của tộc Thiên Thù trừ khi có ý tạo phản, muốn thay tộc trưởng, sau đó chấp nhận co vòi rụt cổ chờ trong tộc có một Hoắc Trường Ca thứ hai sinh ra, bằng không tuyệt nhiên sẽ không vì lợi nhỏ mà bỏ lỡ đại sự.
Phải biết...
Hoắc Trường Ca được người đời công nhận là luyện khí đại sư hàng đầu Huyền Hoàng giới, bất chấp chuyện lão là sơn man. Trên đời cũng không phải cứ có tài là được nhìn nhận, mà cái gọi là danh tiếng kỳ thực cũng không hoàn toàn chí công vô tư.
Trên đỉnh núi Lệ Chi có một tòa nhà lớn, vừa được Phó Kinh Hồng xây xong cách đây mấy tháng, đặt tên là Quần Anh đường. Bấy giờ nơi đây người ra kẻ vào tấp nập, các món xào món nướng xếp đầy trên mười mấy cái bàn dài, mùi rượu thơm nồng bốc lên ngào ngạt, bầu không khí vui vẻ nhiệt náo chẳng khác nào ngày tết đến xuân về.
Hôm nay đương nhiên là tiệc khánh công, ăn mừng núi Lệ Chi thành công đẩy lui được thế tiến đánh của quân triều đình.
Trong Quần Anh đường, Phó Kinh Hồng ngồi ở chủ vị, trên mặt treo một nụ cười nhạt. Ngồi ở ghế đầu tiên bên tay trái là Lâm Thanh Tùng, xem như là đứng đầu trong số “văn quan” núi Lệ Chi. Hàng ghế đầu tiên bên phải, cũng tương đương với thân phận “võ tướng” số một, không phải ai khác ngoài Đặng Tiến Đông.
Hai người này một đơn thân độc mã vào quân doanh Đại Việt, sau lại đơn độc đi sứ Sơn Man, mời được tộc Thiên Thù xuất binh hỗ trợ. Một người khác thì lấy sức một mình ngăn cơn sóng dữ, lần lượt đánh bại Long Thiếu Dương, Vũ Văn Hiên, Đinh Bật, đấu ngang hàng Oanh Thiên Lôi Trình Chân Kim thực hiện kế hoãn binh.
Trong khi đó, Phó Kinh Hồng thân là trại chủ lại chẳng đóng góp được gì quá lớn.
Luận mưu trí không bằng Lâm Thanh Tùng, luận võ lực, danh tiếng đều không sánh được Đặng Tiến Đông. Thành thử, kể từ lúc chiến thắng quân triều đình, trong sơn trại đã bắt đầu có những tiếng bàn ra tán vào muốn Phó Kinh Hồng thoái vị nhượng hiền, tốt nhất là để Bạch Mã Hầu Đặng Tiến Đông đến làm thủ lĩnh sơn trại.
Số nhân thủ đi theo Phó Kinh Hồng từ thành Ngự Long còn đỡ, thế nhưng những người hắn đưa từ Táng Thi đinh về thì cơ hồ thể hiện thái độ này ra mặt. Trong mắt bọn hắn, kẻ cầm đầu tu vi càng cao, vậy thì càng có khả năng bảo vệ được sơn trại. Mà danh tiếng của Đặng Tiến Đông ở Táng Thi đinh vang dội thế nào, ắt hẳn không cần nhắc lại nữa.
Càng huống hồ...
Những người này gia nhập sau, địa vị ở sơn trại chắc chắn không thể nào bằng những bộ tốt đã theo Phó Kinh Hồng từ xưa. Thế nhưng nếu Bạch Mã hầu lên làm trại chủ, vậy thì ai cũng như ai, ma cũ với ma mới đều bị kéo về cùng một địa vị. Thậm chí, nếu bọn hắn tham dự giúp Đặng Tiến Đông cướp quyền, không khéo còn có thể được làm “khai quốc công thần”, trở thành thân tín của Bạch Mã hầu cũng chưa biết chừng.
Thành thử...
Đặng Tiến Đông chẳng những không nhắc gì đến chuyện Phó Kinh Hồng đức không xứng vị, lại còn cam tâm tình nguyện nhường hàng chủ vị cho Phó Kinh Hồng khiến bọn người này khó chịu ra mặt. Song, vì chiến lực của họ Đặng đặt ở đó chẳng khác nào quả núi, nên cả đám chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt, chẳng dám hó hé tiếng nào.
Rượu qua vài tuần...
Đặng Tiến Đông dùng cái dáng vẻ khật khà khật khưỡng đứng dậy, giọng lè nhè:
“Trại chủ, để Đặng mỗ giới thiệu mấy vị anh hùng này cho ngài biết. Vị này là Xuyên Vân Tiễn Chu Văn Võ, Chu lão anh hùng. Lúc Đặng mỗ vừa đến Táng Thi đinh, may mà có ngài ấy trợ giúp.”
Chu Văn Võ khoát tay:
“Thôi thôi, thằng nhóc nhà ngươi đừng có mà tìm cách chèo kéo quan hệ. Phó Kinh Hồng đúng không? Chu mỗ là người ân oán phân minh. Đan dược của nhà ngươi chữa khỏi được người anh em tốt của ta, thì ta bán mạng cho ngươi cũng không hề gì. Nhưng nói trước, chuyện bất nghĩa như phóng hỏa giết dân, tổn thương người lành, ép hiền làm cướp đừng mong Chu mỗ làm.
“Chuyện trước đây ta không truy cứu, nhưng mấy chuyện thương thiên hại lý kia sau này cũng đừng hòng làm. Bằng không thề có lão tổng binh trên trời linh thiêng, Chu mỗ không bắn nhà ngươi mười mấy hai mươi mũi tên thì ta mang họ Trư.”
Bên phía quan văn, một trung niên đầu hai thứ tóc, chòm râu trắng có một đường đen ở giữa chỉ biết cười khổ, nói:
“Người anh em này của ta ngoại trừ một thân tiễn thuật độc bộ vô song ra thì cả đời không đọc được mấy quyển sách, nói năng lỗ mãng. Tử Trọng thay y xin lỗi trại chủ. Không có thuốc của ngài, chỉ e hiện giờ tại hạ vẫn là một phế nhân bán thân bất toại, sống không bằng chết.”
“Cao tiên sinh đừng nói vậy.”
Phó Kinh Hồng vội vàng đứng dậy trả lễ, không dám chậm chễ chút nào.
Nguyên do rất đơn giản, hiện tại núi Lệ Chi có thể không có Chu Văn Võ, cũng có thể không có Đặng Tiến Đông, nhưng không thể không có người này.
Binh Trung Hiệp Cao Tử Trọng.
Té ra, năm xưa khi Quan Lâm thất thủ, Cao Tử Trọng vì bị trọng thương nên có ám tật, bị liệt nửa thân, hơn nữa lưỡi cứng đờ không nói được, mắt mờ đi không thấy rõ đường, tai ù tịt không nghe được tiếng nói chuyện bình thường.
Tuy giữ được một cái mạng, nhưng cũng xem như cả đời không cách nào cầm quân được nữa. Nếu không phải còn có Chu Văn Võ nhiều năm cố gắng, có lẽ y sớm đã tự kết liễu.
Mà người thạo việc luyện quân như Cao Tử Trọng có thể nói là thuốc đúng bệnh đối với Lệ Chi sơn.
Kể từ sau khi bất đắc dĩ lên rừng làm cướp, va chạm với quân tinh nhuệ của thành Bạch Đế, Phó Kinh Hồng cũng nhận rõ sự thật: tài luyện binh của hắn trên Huyền Hoàng giới kỳ thực không tính là đặc biệt. Có thể danh chấn Đại Sở hoàn toàn là vì quân sự nước Sở là kém nhất thất quốc mà thôi.
Phải biết, đại Yến có Lăng Khiếu Thiên, đại Thục có Quan Vân Phi, đại Hoàng có Đặng Bá Ngôn, đại Tề có Nghiêm Hàn, đại Việt có Lý Huyền Thiên, đại Hàn cũng không thiếu nữ danh tướng họ Hàn.
Duy chỉ có đại Sở là không lấy được một danh tướng nào oai chấn Huyền Hoàng giới cả.
Thành thử, Phó Kinh Hồng lần này bị ép làm phản chẳng những được mở mang tầm mắt, lại luyện ra được bốn chữ “cầu hiền như khát”, quả thật là Tái ông mất ngựa, họa phúc khó mà nói rõ.
Đặng Tiến Đông gật đầu, lại chỉ vào một thiếu niên mặc áo đen ngồi bên trái Chu Văn Võ, nói:
“Còn vị tiểu huynh đệ này là...”
“Dạ Phong Tiêu (gió bão trong đêm) – Lăng Phong.”