Tiền Tùng Minh cầm thiếp mời, mở ra xem vài lần, lại nói: “Để ta trở về hỏi mấy người hay cùng tới đây với ta, hay là chủ tiệm cũng cho ta thêm mấy tấm thiệp mời đi, đến lúc đó ta sẽ mang lễ đến chúc mừng.”
Nếu không phải vì chuyện Điền Nam, Tiền Tùng Minh tất không có khả năng đến tham gia lễ cập kê của Khương Đường.
Cho dù nấu ăn ngon đến đâu cũng là người làm ăn, nhưng nữ nhân này lòng mang dân chúng, lại cùng An Dương quận chúa giao hảo, chỉ riêng chuyện này đã là bất đồng rồi.
Ngày đó hắn nhận ra người bên cạnh Khương Đường là nữ nhi của An Vương, còn có An Ninh quận chúa trong phủ trưởng công chúa nữa.
Nếu hai vị quận chúa ở đây, công lao của Điền Nam đương nhiên không thể ôm ở trên người mình được.
Sĩ nông công thương, thương nhân mặc dù có địa vị thấp, nhưng muốn tiêu thụ nấm khô số lượng lớn thì còn phải dựa vào thương nhân.
Cứ như vậy, không phải là Khương Đường cũng lập được đại công sao.
Cho dù Thánh thượng hiện tại không khen ngợi, nhưng luôn ghi nhớ trong lòng, ngày sau tuyệt đối có hồi báo.
Kinh doanh, điều quan trọng nhất chính là lương tâm, Khương Đường có thiện tâm như vậy đã là tốt hơn so với rất nhiều người rồi.
Khương Đường lại trở về lấy mấy tấm thiệp nữa. Nàng còn chưa biết thân phận của Tiền Tùng Minh, chỉ cho rằng hắn là người đọc sách, hẳn là một tiểu quan, vẫn chưa nghĩ đến phương diện khác.
Đến lúc đó người có tới hay không Khương Đường cũng không biết, chờ ngày đó rồi xem đi.
Khương Đường mấy ngày nay chuẩn bị lễ cập kê, đầu bếp thì nhờ Triệu đại nương tìm, món ăn tự mình đặt.
Có kinh nghiệm tổ chức yến hội ở Vĩnh Ninh hầu, những chuyện này không làm khó được nàng.
Chẳng qua đã là giữa tháng, nàng cũng không nhận được thư của Cố Kiến Sơn. Khương Đường nhẩm tính ngày, từ đây đến Tây Bắc, hẳn là nửa tháng cũng đã tới rồi. Cố Kiến Sơn hẳn là nhận được thư của nàng, nhưng nàng lại không nhận được thư hồi âm.
Khương Đường không biết tình huống bên kia, luôn mong Cố Kiến Sơn có thể bình an.Về phần có thư hay không cũng không quan trọng bằng sự an nguy của hắn.
Bản thân nàng cũng quên mất chuyện sinh nhật, Cố Kiến Sơn càng không có khả năng biết chuyện. Chỉ cần trước năm mới hắn bình an trở về, Khương Đường đã rất thỏa mãn rồi.
Đợi đến ngày hai mươi hai, bầu trời âm u lại sáng tỏ.
Lục Cẩm Dao không tới được, còn có mấy người Lục Anh cùng xin nghỉ phép một lần cũng không tốt, cho nên chỉ có Lộ Trúc đi.
Quà tặng lễ không nhất thiết phải là bạc, trưởng bối thì tặng trang sức, ngang hàng thì tặng đồ vật mình tự làm, phần lớn là giày dép và những vật dụng bên người.
Người chủ lễ mà Lục Cẩm Dao mời tới là phu nhân Phùng thị của Trường Ninh hầu Từ Khung Nam.
Trước đó Lục Cẩm Dao đã bảo Lộ Trúc đi qua nói cho Khương Đường biết về người chủ lễ.
Tuy rằng Phùng thị có cáo mệnh nhưng xuất thân bình thường, là phu nhân của Từ Khung Nam từ khi hắn còn chưa tòng quân, hiện giờ đã hơn hai mươi năm.
Phùng thị đến từ sớm, đang dặn dò Khương Đường những chuyện cần chú ý trong lễ cập kê.
Dáng người bà ấy hơi đ.ẫy đà, nói giọng oang oang nhưng tính tình rất hiền lành, sau khi nói xong vỗ vỗ tay Khương Đường: “Ngươi đẹp như thế này, đến lúc đó cứ tự nhiên thoải mái là được.”
Khương Đường nói: “Đa tạ phu nhân, Lục tỷ tỷ có quan hệ tốt với phu nhân nên mới mời phu nhân lại đây, chứ trong lòng ta thật sự rất áy náy.”
Phùng thị ngẩn người rồi cười to nói: “Đây chỉ là chuyện nhỏ thôi mà, ta có thể tới đây nhìn thấy tiểu nương tử đẹp như vậy, vui còn không kịp đâu.”
Người bên ngoài kiểm tra thiệp mời là Lưu Đại Lang, vì hôm nay còn cố ý thay một bộ y phục thật tươm tất.
Người tới có rất nhiều người mà hắn không biết, nhưng có vài người mà vừa báo tên là hắn có thể giao tiếp được, chẳng hạn như phu nhân của Tiền lão gia, phu nhân của Trịnh lão gia...
Đều là người nhà khách quen của tiệm lẩu, đương nhiên phải chiêu đãi cho thật tốt.
Khóe miệng Lưu Đại Lang nhếch lên đến mang tai: “Mời ngài vào trong ngồi, nước trà điểm tâm đã chuẩn bị sẵn rồi, chúc ngài ăn uống ngon miệng.”
Trịnh thị tới không sớm không muộn, sau khi tới lại thấy rất nhiều người quen.
Bà ấy thầm giật mình, trên mặt lại không lộ ra chút gì. Sau khi đưa quà tặng lễ cho Lưu Đại Lang liền ung dung ngồi cùng những phu nhân có cáo mệnh này nói chuyện với nhau.
Dù sao cũng phải biết vì sao có nhiều phu nhân có cáo mệnh ở đây như vậy.
Trịnh thị vốn nghĩ đây là người Lục Cẩm Dao mời tới giúp Khương Đường, hỏi mới biết được, mấy người Tiền Tùng Minh là thực khách ở đây.
Ban đầu chỉ có Tiền đại nhân cùng Tôn đại nhân, sau đó lại dẫn theo không ít người tới đây nữa.
Phu nhân của Tiền Tùng Minh nhỏ giọng nói với Trịnh thị: “Không chỉ như thế, Khương cô nương còn giải được một vấn đề nan giải của Thánh thượng nữa.”
Phu nhân hậu trạch không được phép hỏi phu quân chuyện ở trên triều, nhưng đây là Tiền Tùng Minh tự mình nói, lại nói tiếp chuyện này cũng có liên quan đến tứ nhi tử của Trịnh thị Cố Kiến Châu.
Phu nhân của Tiền Tùng Minh giải thích mấy câu, Trịnh thị mới hiểu được nguyên căn trong đó, phần thưởng ban thưởng này chỉ sợ sẽ không ghi trên người Khương Đường, tám phần sẽ ghi trên người Cố Kiến Châu.
Phỏng chừng đến lúc đó cũng sẽ ban thưởng cho Khương Đường vài thứ, dù sao đồ vật cũng là do Cố Kiến Châu mang về.
Trịnh thị cười cười: "Thì ra là như thế, ta là bởi vì Khương tiểu nương tử tâm thiện, lúc ta bị bệnh nàng ấy chiếu cố một thời gian, có chút giao tình, cho nên lại đây.”
Trịnh thị còn không biết người chủ lễ trong lễ cập kê là người nào, liền hỏi Tiền Tùng Minh phu nhân một câu.
Người hẳn là do Lục Cẩm Dao tìm đến. Nàng ấy đối xử với Khương Đường không tệ, thậm chí còn coi nàng như là tỷ muội ruột thịt, lại thêm quan hệ với Cẩm Đường Cư, tình cảm này không cắt đứt được.
Tiền Tùng Minh phu nhân lắc đầu: “Ta cũng không biết, nhưng mà một lát nữa liền sẽ biết thôi.”
Đến giờ lành, Trịnh thị thấy Khương Đường cùng Trường Ninh Hầu phu nhân Phùng thị cùng đi ra. Lúc nàng còn nhỏ đã có dung mạo tuyệt sắc, mà nay trổ mã lại càng thêm duyên dáng yêu kiều.
Ở Ngự Triều, lễ cập kê cần phải có song thân có mặt, sau đó người chủ lễ chải đầu cho tiểu nương tử, lại cài trâm cài đầu, nói mấy lời chúc xong mới tính là kết thúc buổi lễ.
Trịnh thị thấy người tham dự cũng không ít, có Lộ Trúc, còn có rất nhiều gương mặt lạ mà bà ấy chưa từng gặp bao giờ, nhìn thần thái cực kỳ mộc mạc, hẳn là hàng xóm láng giềng.
Bà ấy nhớ rõ Phùng thị là phu nhân của Trường Ninh hầu Từ Khung Nam, hai người tình thâm, Từ Khung Nam chưa từng nạp thiếp thất.
Trịnh thị còn nhớ rõ, Từ Khung Nam là quan trên của Cố Kiến Sơn nữa.
Giờ lành đến, Khương Đường quỳ gối trên nệm hương bồ.
Phùng thị cầm lược chải đầu cho nàng, từ đầu đến đuôi, tóc dài màu đen, một đầu đen nhánh. Chờ Lộ Trúc dâng trâm cài lên, Phùng thị cao giọng nói: “Lệnh nguyệt cát nhật, thủy gia nguyên phục. Bỏ rơi ấu chí, thuận nhĩ thành đức. Thọ khảo duy kỳ, giới nhĩ cảnh phúc.”
Thanh âm Phùng thị cực kỳ vang dội, khách khứa ngồi đây đều có thể nghe thấy.
Chờ chải đầu xong, Phùng thị bới tóc lên cho Khương Đường, sau đó Khương Đường cảm thấy trên đầu khẽ động đậy rồi Phùng thị liền đỡ nàng dậy.
Khương Đường hướng về phía tân khách hành lễ, Phùng thị lại nói: “Song thân của chất nữ ta không ở bên này, vậy nên ta thay mặt chủ trì lễ cập kê, mong mọi người chớ trách ta bao biện làm thay. Lễ cập kê của chất nữ ta hôm nay đã xong rồi, cảm tạ chư vị không quản đường xá xa xôi tới đây. Trong nhà có chuẩn bị tiệc rượu, hy vọng mọi người ăn uống ngon miệng.”
Phùng thị dẫn Khương Đường đi nói chuyện với các vị phu nhân, trong nháy mắt, Khương Đường thậm chí cảm thấy Phùng thị thật sự là trưởng bối của nàng.
Phùng thị mang theo người đi tới trước mặt Trịnh thị: “A Dao nhờ ta đến, ta lại mang theo nàng đi gặp khách nhân khác.”
Tuy rằng có rất nhiều phu nhân quan viên nhưng Khương Đường cũng không biết.
Lúc này mới biết, đến quán lẩu ăn cơm đều là ai.
Phùng thị nhỏ giọng nói với Khương Đường: “Những người này ngươi cũng đừng để ý quá, cứ cư xử bình thường là được rồi.”
Khương Đường gật đầu: “Ta biết rồi.”
Phùng thị thích Khương Đường như thế này này, bà ấy nhìn Khương Đường thêm một lúc, nuốt xuống những lời nói đến bên miệng: “Được rồi, lát nữa vào tiệc ăn cơm đi.”
Khương Đường lại gật đầu: “Phùng phu nhân ta dẫn ngài đi qua.”
Khương Đường mời đầu bếp mà Triệu đại nương giới thiệu, tổng cộng bày bốn bàn.
Sau khi mọi người ăn cong đi hết, Khương Đường cùng với mấy người Lưu đại tẩu cùng nhau thu dọn thức ăn thừa.
Lưu đại tẩu tặng nàng hai đôi giày cho chính nàng ấy tự tay làm, là hai đôi giày mùa đông.
Trần gia nương tử và Vương thị tặng cũng là những thứ giống như vậy, đồ vật không quý giá nhưng tự tay làm nên rất thoải mái.
Lưu đại tẩu không để Khương Đường động thủ: “Hôm nay là sinh nhật ngươi, nghỉ ngơi đi, chúng ta tự làm”.
Các nàng cũng không biết người tới là ai, chuyện của triều đình cách rất xa dân chúng. Phu quân của Lưu đại tẩu chỉ là một bộ khoái nhỏ, nàng ấy ngay cả chức quan cũng không đếm hết được rồi.
Bao nhiêu quan viên đến nàng ấy cũng không cần quan tâm, chỉ biết sau này đi theo Khương Đường làm ăn, nhất định sẽ không kém.
Trần gia nương tử cũng nói: “Mấy thứ này thu dọn xong sẽ mang vào cất hết trong phòng bếp của ngươi.”
Khương Đường: “Thức ăn thừa có mấy món còn chưa đụng vào đâu, các tẩu tử nếu không chê thì mang về một ít, ta sống có một mình, cũng không ăn hết được.
Nói như vậy, tự nhiên hai bên đều vui vẻ.
Vương thị nói: “Được rồi, ngươi mau trở về đi, nơi này có chúng ta rồi. Làm xong sẽ khoá cửa lại, chìa khoá gửi ở chỗ Đại Lang. Khương muội tử, hôm nay ngươi đẹp quá đi, trâm trên đầu cũng vậy.”
Khương Đường đưa tay sờ thử một cái, rất lạnh, cái này là do Phùng thị mang đến, nàng vừa rồi vẫn cúi đầu, không biết tóc trông như thế nào.
Đợi chút nữa về nhà nhìn xem.
Bên này giao cho ba người, Khương Đường liền về nhà.
Vừa mở cửa, Điểm Kim Ô Kim liền nhào về phía nàng, may jmà Khương Đường khí lực lớn nên mới đứng vững được, bằng không sẽ bị cả hai đứa xô ngã.
Đã gần năm tháng rồi, cũng không phải là chó sữa nhỏ như trước kia, có thể một tay ôm một con nữa.
Mang theo Điểm Kim Ô Kim vào nhà, Khương Đường nhìn vào mái tóc trên đầu mình ở trong gương.
Nàng khẽ sửng sốt, trâm cài tóc làm bằng ngọc, mấy đoá hoa nhài phía trên không nở rộ như hoa nhài trên vòng tay của nàng, hoa trên trâm này chúm chím e ấp vừa phải.
Những cánh hoa điêu khắc trên ngọc thạch, không có thân cũng không có rễ, không có hương thơm cũng không có mùi vị, cứ như nở ra trên chiếc trâm, khiến cho người ta cảm thấy tươi mới khi cài lên tóc.
Đó là hoa nhài, chính là quà Cố Kiến Sơn tặng.
Người khác không biết chuyện vòng tay, chỉ có một mình Cố Kiến Sơn biết.
Khương Đường ngơ ngẩn soi mình trong gương đồng một hồi lâu, sau đó lập tức đứng dậy, kéo theo tà váy chạy như bay ra khỏi phòng, Điểm Kim và Ô Kim thấy nàng chạy ra thì cũng cất bước chạy theo, một người hai chó chạy một mạch ra mở cửa, ngoài cửa không có một bóng người, chỉ có lớp tuyết dày cộm bị hàng xóm qua lại dẫm loạn xạ.
Nếu Cố Kiến Sơn đã trở lại thì lúc này hẳn phải nên đứng ở trước cửa.
Khương Đường tựa vào cánh cổng lạnh lẽo, hơi ấm trong lòng cũng từ từ hạ xuống. Nàng ngơ ngẩn nhìn đóng tuyết đọng chưa kịp tan hết, chắc Cố Kiến Sơn vẫn chưa trở về.
Khương Đường nắm chặt hai bộ y phục để dùng cho lễ cập kê, lại đứng chờ ở ngoài cổng một hồi lâu, vẫn không thấy một bóng người.
Lúc này, Khương Đường cảm thấy Cố Kiến Sơn thật sự không quay về.
Hoặc là người chưa về tới Thịnh Kinh, hoặc là người vẫn còn ở Tây Bắc.
Chiếc trâm cài tóc này hẳn là do Cố Kiến Sơn đã nhờ Xuân Đài làm giúp.
Nhưng Khương Đường cũng không biết vì sao nó lại xuất hiện ở nơi này.
Nhà của Lưu đại tẩu cách vách vọng tới tiếng cười đùa của hài tử, Khương Đường hít sâu một hơi, chuẩn bị trở về.
Cho dù hắn không về nhưng cũng đã nhận được lễ vật của hẳn, vẫn nên vui vẻ mới đúng chứ, làm sao lại cảm thấy trong lòng không dễ chịu một chút nào.
Khương Đường cúi đầu cười nhạt, duỗi tay sờ sờ chiếc trâm lên đầu, vừa quay người đi thì đã nghe thấy có tiếng ai đó gọi nàng.
Quay đầu lại nhìn, hóa ra là Xuân Đài.
Nhưng cũng chỉ có một mình Xuân Đài, không có bất kỳ ai theo phía sau hắn.
Xuân Đài chạy từ đầu ngõ vào đây, thở hổn hển mấy hơi, trên mặt lộ ra vẻ khó xử, nói: “Khương cô nương, Tiểu Sơn bên kia còn bận việc, không thể trở về tham dự lễ cập kê của cô nương.”
Xuân Đài cảm thấy Khương Đường có một đôi mắt biết nói, trong nháy mắt khi nhìn thấy hắn, ánh mắt của nàng lập tức lộ ra vẻ vui mừng, lúc thấy chỉ có một mình hắn, đôi mắt ấy lại trở nên u ám, ảm đạm.
Chờ hắn nói xong, Khương Đường mới gật đầu: “Ừ, ta đã đoán được, hắn ở bên đó có khỏe không?”
Xuân Đài: “Tiểu Sơn ở bên kia rất ổn, cô nương cứ yên tâm đi.”
Xuân Đài cũng không đành lòng nói với Khương Đường những chuyện khác.
Khương Đường cười nhạt, dắt Xuân Đài vào nhà: “Trước tiên cứ ngồi xuống nói chuyện đã.”
Nước được đun trên bếp lò vẫn còn ấm, Khương Đường rót một ly rồi đưa cho Xuân Đài, lại lấy thêm một ít hạt dưa và bánh trái. Xuân Đài ùng ục uống cạn ly nước ấm, vội vàng nói: “Trước tết công tử không thể trở về, Tây Bắc có chiến sự.”
Bằng mắt thường vẫn có thể nhìn thấy sắc mặt của Khương Đường trở nên sốt ruột, Xuân Đài vội vàng nói: “Không cần lo lắng, công tử bên đó hết thảy đều khỏe mạnh, chiến sự này là do ngự triều khơi mào trước.”
Cụ thể là chuyện gì thì Xuân Đài không tiện nói, hơn nữa hắn cũng không thật sự rõ ràng.
Chiến sự ở Tây Bắc bùng nổ, vốn dĩ ngự triều và Hồ tộc đã ước định vào mùa đông sẽ nghỉ ngơi lấy lại sức, không được khai chiến, nuôi quân dưỡng lính.
Như vậy thì ngự triều cũng sẽ có thời gian và sức lực để nuôi binh, suy cho cùng thì mùa đông ở vùng biên cảnh Tây Bắc quá lạnh giá, vừa phải chịu cái giá rét mùa đông, vừa bị thương bị bệnh, cuộc sống ở biên cảnh lúc này rất khó khăn, còn nghĩ gì tới chuyện chiến tranh được nữa.
Hồ tộc là một dân tộc du mục, ẩn mình ở nơi sâu nhất trên vùng thảo nguyên, khó mà tìm thấy triều đình của bọn họ, đây là điểm khó khăn đầu tiên cần phải vượt qua. Thứ hai, Hồ tộc giỏi cưỡi ngựa, chiến mã của bọn họ chạy trốn nhanh hơn so với chiến mã của ngự triều, cũng có thể chịu rét. Thứ ba, người dị tộc trời sinh cao to, sức lực lại lớn, giỏi cưỡi ngựa bắn cung, con người cũng rất giảo hoạt.
Ngự triều nằm ở những vùng núi cao ở Tây Bắc có thiên nhiên làm là chắn, nhưng cũng có một vài nơi là những vùng trũng bằng phẳng.
So với việc chờ tới đầu xuân bị Hồ tộc tiến đánh, còn không bằng thừa dịp bọn họ đang bận rộn chuẩn bị quân lương mà tiến đánh.
Cướp hết dê bò của bọn họ, Hồ tộc càng cần nhiều thời gian để khôi phục binh lực thì tới đầu xuân ngự triều sẽ càng được yên ổn.
Còn có thêm nhiều tài nguyên để gieo trồng vào đầu xuân năm sau.