Lục Cẩm Dao gả cho Cố Kiến Châu hoàn toàn là do ý định của phụ mẫu, chỉ có nhờ Bạch Vi hỏi thăm một chút, cảm thấy Cố Kiến Châu là người có thể gửi gắm được nên mới đồng ý gả sang, mãi đến lúc động phòng, nàng ấy mới biết được mặt mũi Cố Kiến Châu trông như thế nào.
Thành hôn được hai năm, từ người xa lạ không hề quen thuộc trở thành phu thê thân mật khắng khít, nhưng nếu Khương Đường gả cho Cố Kiến Sơn, đã có tình có nghĩa thì chắc chắn sẽ có sự khác biệt rất lớn.
Lục Cẩm Dao cũng không biết rốt cuộc thế nào mới gọi là tốt, lệnh phụ mẫu lời mai mối, phần lớn đều lựa chọn thế gia hiển hách hơn người, mà cứ cho là thế gia liên hôn thì cũng không thể tùy tiện tìm một nhà để gả vào được.
Nhưng người mình gả chưa chắc đã là người mình thích, giống như Hứa thị của nhị phòng và Cố Kiến Thủy sớm đã bằng mặt không bằng lòng.
Nàng ấy cũng chỉ mới hơn hai mươi tuổi, sau này chỉ có việc chăm lo cho hài tử, bị vây quanh chốn hậu trạch.
Mà hành động giống Cố Kiến Sơn trong mắt người ngoài là chuyện từ trước tới nay không một ai có thể chấp nhận, nhưng nếu bọn họ thật sự là lưỡng tình tương duyệt thì trên đời này lại ít đi một đôi si nam oán nữ.
Nhưng nếu thân phận và gia thế không tương xứng với nhau thì cũng rất gian nan.
Lục Cẩm Dao nghĩ mãi không ra rốt cuộc làm thế nào mới tốt, chỉ có thể nói trên đời không có biện pháp vẹn cả đôi đường, không thể có được cả cá và tay gấu.
Nếu Trịnh thị bên kia có hỏi thì Lục Cẩm Dao sẽ lấy chuyện lũ lụt ở Điền Nam làm cớ để nói cho qua chuyện, dù sao bà bà cũng sẽ không tìm người hỏi sự thật.
Nếu không hỏi tới thì có lẽ Lục Cẩm Dao sẽ tự mình nói, đôi khi phải thật thật giả giả một chút, nói chuyện dù sao cũng phải có vài phần chân thật mới khiến cho Trịnh thị tin tưởng được.
Lục Cẩm Dao lo lắng cả một ngày, chờ đến khi chạng vạng cũng không thấy Trịnh thị qua tới, cũng hơi yên tâm một chút.
Bản thân nàng ấy buổi chiều lại đến thăm Chiêu ca nhi, ngồi bên cạnh canh chừng cho nhi tử ngủ. Phần lớn thời gian của hài tử mới sinh đều dùng cho việc ngủ, bàn tay bàn chân nho nhỏ, Lục Cẩm Dao nhìn hài tử này đã cảm thấy lòng mình trở nên mềm mại.
Chờ sau khi dùng xong cơm chiều, Trịnh thị từ chính viện sang đây thăm tôn tử.
Trời trở lạnh nên Trịnh thị thà rằng bản thân tự mình qua đó chứ cũng không muốn sai bà vú ôm tôn tử ngồi nhuyễn kiệu sang chỗ bà.
Một ngày bà sẽ tới thăm hai lần, vô cùng yêu thích tôn tử này.
Trịnh thị sang phòng bên thăm Chiêu ca nhi được mười lăm phút, vừa tới lúc Chiêu ca nhi tỉnh giấc, ra đời được hơn nửa tháng đã mập lên không ít, lại còn ê a ê a, linh động đáng yêu.
Trịnh thị nhìn tiểu tôn tử, cảm thấy lòng mình như tan thành nước, ôm tôn tử một hồi lâu rồi mới gọi hai bà vú vào, lúc này mới đi xem Lục Cẩm Dao.
Lục Cẩm Dao muốn hành lễ thì Trịnh thị đã mở miệng nói: “Con đang ở cữ, không cần hành lễ.”
Lục Cẩm Dao cười cười: “Mẫu thân mau ngồi đi, Lộ Trúc, lấy điểm tâm và trà nước tới đây.”
Trịnh thị thấy sắc mặt nàng ấy không tồi: “Y sư trong phủ bắt mạch nói con hồi phục như thế nào?”
Lục Cẩm Dao: “Y sư nói hồi phục không tệ, bụng vẫn còn hơn lớn, nhưng cũng chỉ vừa sinh hài tử xong, con cũng không nghĩ sẽ lập tức khôi phục được như trước đây. Thức ăn Triệu đại nương làm vẫn xem như là hợp khẩu vị, chỉ là vẫn có hơi nhớ thức ăn Khương Đường làm.”
Trịnh thị chớp mắt khiến hàng mi run lên, ý vị thâm trường nói: “Con lại khen Khương Đường rồi.”
Lục Cẩm Dao cười nhẹ, thoải mái hào phóng nói: “Lúc con mang thai nàng đã chăm sóc con rất tốt, mọi chuyện đều tự tay làm lấy. Phòng bếp lại nhiều khói và mùi dầu mỡ, nấu ăn vốn không phải là việc của nàng.
Trịnh thị lại là không nghĩ ra, nếu Khương Đường thật sự có quan hệ gì đó với lão Ngũ, nếu Lục Cẩm Dao quen biết Phùng thị thì tự nhiên cũng sẽ biết được một chút gì đó, làm sao có thể không kiêng dè nói với bà những chuyện này.
Trịnh thị thuận miệng phụ họa hai câu: “Hôm nay ta cũng đến dự lễ cập kê của nàng, nữ nhân tới mười tám là thay đổi rất lớn, nhìn hoàn toàn khác so với lúc làm nha hoàn trước đây. Nhưng sao người chủ trì lễ cập kê lại là Trường Ninh hầu phu nhân, nàng tự mình tìm người sao?”
Lục Cẩm Dao hàm hồ nói: “Có thể nói là như vậy đi, giữa trưa mẫu thân có thấy phu nhân của Đại Lý Tự khanh, phu nhân của Hộ Bộ Thượng thư và vài vị phu nhân của các đại thần khác không?
Trịnh thị gật đầu.
Lục Cẩm Dao thong thả ung dung nói: “Chuyện này còn phải nói tới lúc Tứ Lang đến Điền Nam trị thủy. Lúc Tứ gia gửi về không ít nấm, mẫu thân có nhớ không?
Trịnh thị đương nhiên nhớ rõ, bởi vì bà cũng có ăn.
Khương Đường làm nấm xào, lẩu nấm gì đó bà đều có ăn qua, lúc ấy cảm thấy ăn rất ngon.
Thấy Trịnh thị gật đầu, Lục Cẩm Dao lại tiếp tục nói: “Sau khi Khương Đường chuộc thân rời khỏi Hầu phủ, đã dựa vào tay nghề của mình mở tiệm làm ăn buôn bán. Đầu tiên là mở sạp ăn vặt, sau đó là tiệm lẩu, cửa hàng hiện tại của nàng gọi là tiệm lẩu Khương thị, con cũng có góp vốn trong đó. Cái này… Hẳn là mẫu thân không biết chuyện này đâu.”
Trịnh thị thật sự không biết, sau khi Khương Đường rời khỏi Hầu phủ thì bà chỉ sai Nam Hương hỏi thăm cuộc sống của nàng thế nào, sau này cũng không hỏi tới nữa.
Bà lắc đầu, nhàn nhạt mà nhấp một ngụm trà, ý bảo Lục Cẩm Dao tiếp tục nói.
Bà không thể hỏi trực tiếp Khương Đường cùng Cố Kiến Sơn, chỉ có thể hỏi thăm bóng gió như vậy thôi.
Trịnh thị giữa trưa trở về chính viện suy nghĩ cả nửa ngày trời, cũng không thèm ngủ trưa.
Hiện tại trong đầu bà rất lộn xộn, bà nghĩ tới lời Cố Kiến Sơn nói trước khi đi, nói hiện tại không vội, lại nghĩ tới lúc tháng tư hắn ngày nào cũng về chính viện dùng cơm.
Có một số việc nếu không nghĩ tới thì sẽ không thấy có gì không đúng, một khi nghĩ kỹ lại thì sẽ thấy rất nhiều điểm đáng ngờ.
Trịnh thị nhớ kỹ lúc bà có thể ăn uống lại bình thường thì đã cho Khương Đường về lại Yến Kỉ Đường, mà từ lúc đó Cố Kiến Sơn cũng không hề tới chính viện dùng cơm nữa.
Trên đời sao lại có thể có nhiều sự trùng hợp như vậy, không nghĩ tới nhi tử này của bà lại xem trọng nhan sắc nha.
Lục Cẩm Dao cười mỉm, nói tiếp: “Tiệm lẩu có bán lẩu nấm, đám người Tiền đại nhân cũng là thực khách ở đây. Nấm Khương Đường bán đều được lấy từ Điền Nam về, sau trận lũ lụt ở Điền Nam không phải triều đình vẫn luôn mặt ủ mày chau nghĩ cách cứu giúp bá tánh nơi đó sao, lần này Khương Đường đã giúp bọn họ giải quyết được một vấn đề không nhỏ, cho nên mới để phu nhân nhà họ đến tham dự lễ cập kê. Có lẽ Trường Ninh hầu phu nhân cũng là vì nguyên nhân này, con vốn dĩ muốn nhờ sư nương của Tứ Lang qua đó, nhưng trời xui đất khiến thế nào lại mời được Trường Ninh hầu phu nhân. Con và bà ấy cũng có duyên gặp gỡ vài lần, có thể mời được bà ấy hẳn cũng là do Khương Đường.”
Lục Cẩm Dao thong thả ung dung kể lại, từ từ nói ra hết, trong lòng Trịnh thị cũng không còn quá rối loạn nữa.
Cuối cùng bà thử mở lời: “Khương Đường quả thật không tệ, con nói xem nếu ta nhận nàng làm nghĩa nữ thì sao?”
Trong mắt Lục Cẩm Dao lộ ra vẻ kinh ngạc và vui mừng: “Vậy thì còn gì tốt hơn nữa, thân thế Khương Đường không tốt, nếu là có thể nhận ngài làm nghĩa mẫu thì cũng xem như có nơi để dựa vào.”
Lục Cẩm Dao vui vẻ không giống như đang giả vờ, Trịnh thị thở dài trong lòng: “Để ta suy nghĩ đã, con cứ tĩnh dưỡng thân thể cho tốt đi.”
Trịnh thị quay về trong màn đêm tối, gió lạnh thổi qua, đầu tóc lập tức tỉnh táo rõ ràng.
Bà không muốn làm khó Khương Đường, cũng không biết là thật hay giả, Cố Kiến Sơn ở bên kia chắc cũng cần một khoảng thời gian nữa mới trở về được, trước mắt cứ kéo dài đi.
Thật lòng Trịnh thị không hề muốn Khương Đường trở thành nhi tức của bà, Khương Đường chăm sóc cho bà mấy ngày thì có làm sao.
Không thể nào thay đổi được xuất thân của nàng.
Nàng từng làm nha hoàn, đám hài tử trong phủ Vĩnh Ninh hầu vẫn còn muốn thành thân gả chồng đó.
Trịnh thị rất thưởng thức dũng khí của Khương Đường, cũng kính nể sự can đảm của nàng, có thể dựa vào năng lực của bản thân để thay đổi vận mệnh.
Nhưng sự tán thưởng này không đến mức khiến bà chấp nhận cho nhi tử thành thân với nàng.
Cho dù chuyện đã tới nước này nhưng Trịnh thị vẫn không có cách nào chán ghét Khương Đường.
Thậm chí Trịnh thị còn cảm thấy, ngoại trừ vấn đề thân phận ra, Khương Đường cũng không có gì kém hơn quý nữ thế gia.
Dung nhan của nàng khuynh sắc khuynh thành, mọi người đều nói Minh quý phi ở trong cung vô cùng xinh đẹp, lúc bà vào cung tham gia yến hội cũng từng nhìn thấy Minh quý phi, cũng gặp qua những tiểu nương tử nhan sắc nổi danh của Minh gia, Trịnh thị lại cảm thấy không một ai có thể so sánh với Khương Đường.
Trên người Khương Đường có rất nhiều phẩm chất mà quý nữ thế gia không có, thông minh hiếu học, làm việc biết co duỗi vừa phải, cũng không sẽ không sợ hãi nếu đụng phải vấn đề chưa từng gặp qua, cho dù nhan sắc khuynh thành nhưng chưa từng nghĩ tới sẽ dùng sắc đẹp để đạt được mục đích gì đó.
So với những thứ khác thì có vẻ tay nghề nấu ăn ngon cùng với tâm địa thiện lương lại trở nên nhỏ bé không đáng kể.
Buổi chiều Trịnh thị ngồi ngẫm nghĩ suốt mấy canh giờ, nếu Cố Kiến Sơn thật sự có tâm tư khác với Khương Đường thì trong đó cũng có nguyên nhân cả.
Một nha hoàn xinh đẹp như vậy ở dưới mi mắt, có thể nào không động lòng, còn chuyện có vượt khỏi ranh giới cuối cùng kia không thì Trịnh thị vẫn tin tưởng vào phẩm chất của nhi tử nhà mình.
Chỉ là không thích hợp, thật sự không thích hợp.
Chẳng lẽ lại để tức phụ lão Tứ trở thành chị em dâu với người từng làm nha hoàn của mình?
Biết phải ăn nói với đại phòng như thế nào, mấy đứa con dâu khác sẽ nghĩ như thế nào, bà phải nói với người ngoài như thế nào, chẳng lẽ lại nói công tử Hầu phủ cuối cùng lại cưới một nha hoàn…
Cho dù Khương Đường chưa từng làm nha hoàn nhưng với gia thế bình thường như vậy, gả đến Hầu phủ cũng không phải là chuyện tốt.
Trịnh thị không hy vọng Cố Kiến Sơn cưới về một cao môn quý nữ nào đó, chỉ hy vọng hắn cưới một người có năng lực nhưng gia thế không cần quá nổi bật mà thôi.
Tuyệt đối không thể là Khương Đường.
Trịnh thị dựa vào cửa sổ, bên ngoài gió đông lạnh lẽo thét gào, chỉ một lát đã thổi những bông tuyết bay tán loạn, tới khi Vĩnh Ninh hầu vào phòng mà bà cũng không nghe thấy.
Vĩnh Ninh hầu phủi phủi tuyết đọng trên người, khập khiễng bước vào: “Tuyết lại rơi rồi, năm nay tuyết rơi thật dày, năm sau nhất định là một năm được mùa.”
Tuyết đã rơi mười mấy trận, bên ngoài cũng vô cùng lạnh giá.
Khi Vĩnh Ninh hầu còn trẻ đã từng bị thương, vào mấy ngày trời đổ mưa hay có tuyết rơi thì chân sẽ phát đau.
Trịnh thị biết ông có bệnh vặt này, lập tức lấy lại tinh thần rồi mò tìm gói thuốc trong ngăn tủ: “Ông ngâm chân trước đi, ngâm xong sẽ thoải mái hơn một chút.”
Vĩnh Ninh hầu cười cười: “Không có việc gì lớn, bà đừng có ngồi cạnh cửa sổ suốt như thế, coi chừng gió lạnh.”
Thời điểm ăn tết năm ngoái Trịnh thị đã ngã bệnh, bây giờ cũng sắp tới tết nữa rồi, đừng để bệnh tiếp.
Khóe miệng Trịnh thị giật giật, sau đó gật đầu, trước tiên lấy gói thuốc tìm được ra, lại sai Nam Hương đi lấy nước ấm.
Lúc nước ấm được mang vào trong đã khiến căn phòng tràn ngập khói trắng bay lượn lờ, Vĩnh Ninh hầu cảm thấy Trịnh thị có điều gì đó không thích hợp, nhưng lại không chỉ ra được chỗ không đúng, rất nhiều lúc ông có thể cảm nhận được Trịnh thị có tâm sự, nhưng hỏi bà thì bà lại không chịu nói.
Vĩnh Ninh hầu uống một ngụm nước, buông cái ly xuống rồi hỏi: “Làm sao vậy, trong nhà có chuyện gì sao?”
Trịnh thị bị hỏi một đằng lại trả lời một nẻo: “Hôm nay ta đến tham dự lễ cập kê của Khương Đường.”
Vĩnh Ninh hầu rất nhanh đã nhớ được Khương Đường là ai: “Nàng không phải là nha hoàn của tứ phòng sao?”
Nếu còn muốn nói tới mấy chuyện khác nữa thì e là mất hết một canh giờ cũng chưa nói xong.
Vĩnh Ninh hầu: “Hóa ra là đã chuộc thân rồi sao, nha hoàn chuộc thân cũng không dễ dàng, nhưng sao bà lại tới dự lễ cập kê của nàng… Bà thích nàng như vậy sao?”
Trước đây Trịnh thị thỉnh thoảng cũng nhắc tới chuyện của Khương Đường với Vĩnh Ninh hầu, ông đã nghe nhiều lần nên cũng nhớ rõ.
Vừa nhắc tới tên Khương Đường là Vĩnh Ninh hầu đã có thể nhớ được mặt nàng.
Trịnh thị lại thở dài: “Không thể nói rõ ràng với ông được, ông mau ngâm chân đi.”
Nên nói thế nào mới phải đây, chẳng lẽ phải tự hào vì nhi tử của mình thích một nha hoàn hay sao, còn tự mình mời phu nhân của thượng cấp đến làm người chủ trì trong lễ cập kê của nàng.
Thật là quá hoang đường, nhưng việc đã đến nước này, Trịnh thị cũng không thể nói gì hơn.